Phi Vân
DƯỚI ÐỒNG SÂU
(Truyện dài)
Câu Cá
Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc
có ngày phong lưu.
Trên đồng
cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cầy,
vợ cấy, con trâu đi bừa.
Hai tháng rồi, ruộng cấy xong, lúa đang đứng
cái và gần có đòng đòng. Nhà nông rảnh việc. Mùa
câu kéo bắt đầu, sau những đám mưa dầm.
Nghề câu của dân quê không giống sự tiêu khiển
nhàn nhã của dân thị thành mà thỉnh thoảng
người ta cũng thấy ngồi buông câu ở bờ
sông để… chờ bữa cơm tối, hay để
“giết” một sáng chủ nhật! Ở đồng quê,
nó là cả một nghệ thuật và cả một công
việc đổ mồ hôi.
Phải chịu thức gần phờ râu mới biết
giống cá đồng chỉ thèm đớp tới
mồi câu vào khoảng đầu hôm đến canh một
và từ canh ba đến sáng!
Phải năm cơm bảy cháo mới rõ cá lóc có tật
ăn “mồi chạy” bằng nhái sống, cá trê ăn bãm
bằng mồi cắt[1]và hơi ngầm. Có những
đêm trời lạnh tái môi mà phải cởi trần
truồng nhảy xuống ruộng, tay đập muỗi,
tay vét rong, gặp môn, nghể không từ, đụng
rắn, đỉa chẳng sợ… để dọn
“luồng” nghĩa là dẹp một khoảng trống
trước khi cắm câu!
Ðó là nói chuyện ruộng nhà, chớ gặp lúc ruộng
mình khan cá, mò qua bên đất ngưòi ta thì còn phải
chịu biết bao nhiêu là khổ sở hơn nữa.
Tôi chưa từng làm thằng ăn trộm, nhưng tôi
chắc đi câu lén không sướng hơn thằng ăn
trộm chút nào.
Ừ, thì chim trời cá nước, ai bắt
được là ăn, tại sao người ta hay cự
nự?
Có hai lẽ. Lẽ thứ nhứt là ai có của cũng
muốn để hưởng một mình, dầu chưa
có biết hưởng được hay không.
Lẽ thứ hai là kẻ câu lén hay làm chết lúa.
Thằng ăn trộm đi ngã sau vường không khi nào
biết tiếc mấy ngọn rau, ngọn cải, không khi
nào có ý bước tránh cho khỏi giẫm chưn lên đám
đậu, cây cà.
Thì thằng đi câu lén có khác gì? Cứ chỗ nào lúa cao là
đoán rằng nước sâu, gặp chỗ nào kín đáo
thì dọn luồng, dầu phải nhổ phăng đi
cả chục bụi lúa cho trống trải, nó cũng
không từ!
Nhưng đó là… ai kìa, chớ tôi, tôi là một kẻ
từng lượm mót từ hột ngọc trời,
từng cắm từ cộng lúa, có bao giờ tôi đang
tay bứt cả cội nguồn.
Chẳng dám vỗ ngực xưng mình “tốt” gì hơn ai,
bởi tôi cũng đã từng đi câu lén ruộng
người ít lắm là vài chục lần, nhưng
đến đâu tôi cũng giữ gìn phải phép lắm!
Năm ấy, nước giựt sớm, mà ruộng tôi
hơi gò, nên cá rất ít.
Nghề làm ăn, đã sắm lỡ câu kéo, xuồng
bộng, không lẽ đem treo lên giàn bếp… nên tôi đành
làm… con vạc ăn đêm!
Một đêm nọ, lấy theo mười
đường câuy, tôi đẩy xuồng, bỏ sạp
dài tử tế đem nào nóp, nào bếp un, một cây
giầm, một cái vợt và cây sào nạng.
Tôi tính qua “nhờ” bên điền ông Chủ Nghĩa. Ông này
xưa nay đã có tiếng “oai như cọp, dữ như
thần”!
Dọc theo điền ông, ban ngày thấy giăng giăng
những bảng cây: “Cấm câu cá! Cấm câu cá!”
- Ậy, ông oai, ông dữ mặc ông, ông cấm thì cứ…
cấm, tôi câu lén cứ việc… câu! Có rượt cống
xuồng tọt về bên mình. Qua khỏi ranh thì “bà hú”… ai
còn sợ gì ai?
Ỷ y như thế, tôi cứ “đường hoàng”
chống xuồng qua ruộng ổng.
Thả câu xong, tôi nằm trên sạp, chờ tới giác
đi thăm cá.
Ðêm ấy không trăng. Muôn ngàn con mắt long lanh in trên
nền trời đen thẫm. Cánh đồng lặng
ngũ trong ánh sáng mờ mờ. gió thoảng từng
hồi, từng hồi ngọn lúa cựa mình xào xạc.
Tiếng giạt sành vang lên trong im lặng xa xa. Tôi cảm
thấy bồi hồi tưởng nhớ đâu đâu,
rồi nhẹ nhàng, rồi khoan khoái, tôi rung đùi ca.
Chưa kịp nói với các bạn rằng tôi là một cây
đờn kìm và ca mùi có điệu, nhờ ở nơi
sản xuất ra bản Vọng cổ đời này.
Ai đã nghe tôi nỉ non những bài ruột như “Ác
ngậm non Ðoài” hay “Mỗi độ thu về” thì mới
biết tại sao cả làng, các cô gái đều ngã lăn
ra mà mê mệt!
Ðêm nay, tiếng gió gợi hứng, nằm một mình thanh
vắng giữa đồng, lỡ mang cái bịnh tài
tử, tôi trút hết nỗi “tơ tằm”:
-… Mỗi độ Thu về…
Tiếng ca ban đầu nho nhỏ, lần lần
đượm vẽ mê say, đến ngang tàng, quên
phứt cái “oai như cọp”, cái “dữ như thần”
của ông Chủ Nghĩ.
-Ôi! Vì thương mà phải bỏ ngai vàng, vì thương
mà thành chim, hoá đá, thương thì phải khổ,
nhưng càng khổ lại càng thường… ơ!…”
- Ai đó! Câu lén phải không?
Bị nạt thình lình, chớp một cái, tôi ngồi
dậy gọn gàng. Quơ gàu nước đổ xèo vào
bếp un, rút sào nạng, tôi ra sức chống vo vo.
- Ai đó, ngừng lại! Không, tôi la lên, mấy
người rình chung quanh áp lại ví đập chết bây
giờ!
La mặc la, doạ mặc doạ, người ta đang
chạy chết đây mà!
Xuồng tôi chống đi thoan thoát, xuồng nọ
đuổi bon bon.
Thình lình nghe một cài ồ… Thôi chết rồi, xuồng
đã rấn lên mô cỏ. Tôi rán sức chống. Xuồng
chỉ qua được phân nửa, và lúc rút cây sào tôi
nhấn mạnh, lái bị khẩm, nước ào vô rồi
chìm lĩm.
Tôi điếng hồn loi ngoi tính lắc nước
xuồng, lượm sào chống nữa… nhưng xuồng
nọ đã tới kề!
Dưới ánh lồng đèn, hai cây giầm giơ lên cao
toan nện xuống.
- Tội nghiệp! Tội nghiệp tôi, ông ơi! Tôi
mới lỡ…
Một tiếng cười khì bên xuồng kia:
- Ông ở đâu đây mà ông?
Nghe nói trớ trêu, tôi nhìn lên: Ý trời đất quỷ
thần ơi, rõ ràng là một cô gái với một thằng
nhãi con!
Có nhục nhã cho tôi chưa, có chết được cho tôi
chưa, trời nè! Phải dè… mà thôi, đã đến nông
nỗi nầy còn mong gì vùng vẫy, tôi nhỏ nhẹ:
- Tội nghiệp tôi mà cô hai! Tôi mới lỡ một
lần…
- Ai biết chú mầy lỡ một lần hay mười
lần? Thôi, mau mau lên chống xuồng theo tôi về nhà ông
Chủ.
- Trời ơi! nếu cô bắt tôi về đó, ông
Chủ xiết câu tôi, tịch thâu xuồng tôi, đóng
trăng tôi, tội nghiệp tôi lắm cô hai à!
- Biết vậy sao chú mầy còn qua đây câu?
- Dạ, túng, kiếm ăn chút đỉnh vậy chớ
đâu có nhiều nhõi gì, cô.
- Nhiều ít không biết. Ông Chủ dặn hễ gặp
ai câu lén, cứ bắt quách về cho ông.
- Như vậy chết tôi còn gì, cô hai. Cô làm nhơn làm
phước tha cho tôi một phen, tôi lạy cômà!
Cô gái nín lặng một chút, rồi cười giòn:
- Ừ, lạy đi rồi tôi tha!
Thằng nhãi con, độc, lại khúc khích:
- Á ngộ, đi câu lén mà còn ca mùi cho bị bắt, bị
lạy….
Cha chả, tụi nầy chơi “bứt gân” quá! Lạy nó
thì nhục, bằng không, nó dẫn về ông Chủ.
Rồi làng xóm hay… rồi má mình hay! Ôi, má mình hay
được chắc là sầu thảm lắm.
Thôi, một liều, ba bảy cũng liều, tôi bặm
môi tự an ủi: Trời tối, ai thấy mà sợ! Mình
giả dại qua ải mà!
Tôi chấp tay, sửa soạn mọp xuống… nước
thì…
- Ý chết, tôi, thôi! Nè, tôi hỏi thiệt, anh có phải là
anh “Sáu đờn kìm” bên điền cậu Bộ không?
Tôi giật mình:
- Dạ… phải!
- Tội nghiệp dữ hôn, lên xuồng tát nước,
hơ lửa cho ấm đi anh Sáu, rồi tôi nói cho mà nghe.
Tôi riu ríu vưng lời, bụng bảo dạ: “Mẹ
thử, nó còn muốn làm gì đây nữa?” Tuy vậy, tôi
hơi vững lòng vì giọng con nhỏ đã dịu, coi
mòi dễ thương.
- Nè anh Sáu, em thấy anh một lần hồi theo Ba em qua
điền cậu Bộ mua gà. Chèn ơi, anh ca mùi quá!
Hồi nãy nghe thanh giọng, em cũng đoán là anh, mà
tại anh chạy…
- Không, tôi có chạy đâu, tôi chống chớ!
- Qủy vật anh, đã bị bắt mà còn giễu.
Tôi thấy có mòi “sống êm biển lặng”, hỏi
gặng:
- Bây giờ cô tính chở tôi đi đâu?
- Không chở đi đâu hết !
- Cảm ơn, vậy là cô tha cho tôi rồi?
Cô gái bí mật:
- Là tha ở đâu!
Tôi lại hơi lo:
- Coi kìa, bắt không bắt… mà tha cũng không tha, là làm sao?
- Thủng thẳng đã. Nè anh Sáu, bây giờ tôi nói tắt
với anh một điều, là tôi tha cho anh… mà lại còn
cho anh… câu nữa, nhưng…
- Nhưng… sao?
- Nhưng anh phải “mùi” cho chị em tôi nghe một bài!
- Ý chết! Người ta nghe, áp lại đón ngách, thì phen
nầy chắc tôi bị lọi ống quyển!
- Anh nhát hít, lúc nãy em dọa chơi, chó Ba em không có ở nhà,
mà cũng không có ai canh vùng nầy hết, chỉ có hai
chị em tôi thôi!
Thằng nhỏ nãy giờ im lặng cũng “xía” vô:
- Ừ, ca đi anh Sáu! Mùi một bản nghe chơi rồi
câu kéo gì thì câu!…
Cá Mắc Câu
Tôi cóm róm bước chưa đầy
nửa thước sân, ba con chó vện ở đâu ùa ra,
sủa ồn ào, nhăn răng, xửng gáy, dường
như hăm he:
- Ếp! Ðứng lại! Bước một bước
nữa thì cặp giò mầy nát ngớu như tương.
Nào, tôi có định lại đây với một ác ý:
cướp của người như mấy thằng
ăn trộm mắc tôi hôm trước nhè rinh đi
của ông chủ hết mấy chục giạ lúa đâu?
Tôi đến với một ý định hiền lành:
mướn đất và “nạp mình” làm tôi cho ông Chủ
kia mà!
Một tiếng rày vang từ trong nhà:
- Ðứa nào ra coi làm gì chó sủa rùm ngoài trước
vậy? Ði chết đâu mất hết, đố khỏi
ăn trộm xúc lúa ban ngày mà coi!
Một chị đàn bà cầm chổi chà chạy ra
quơ… Mấy con chó kinh hãi, nhảy lùi, và như còn ấm
ức, sủa vớt vài tiếng “quấu, quấu”.
- Anh kia muốn gì?
- Dạ tôi đến xin mướn đất.
Chị ta trề môi, rút chổi lặng lẽ đi vô, oai
vệ như một… bà chủ!
Lại có tiếng nói rang rảng ở nhà sau:
- Kêu nó đợi một chút ông mầy thức dậy
đã!
Tôi biết thân, ngồi bó gối dưới bóng mát hàng rào
bông phướn trước sân, chờ.
Ba con chó bộ luyến tiếc hay thèm cặp đùi
của tôi sao mà trở ra ngừ ngừ, đi chung quanh tôi,
hửi hửi, liếm áo, liếm tay… liếm mặt. Tôi
sợ bay hồn mà không dám la, la nó táp bất tử! Tôi
cứ rút chân né, tránh nhè nhẹ. Nhưng cũng may, chúng
biết điều, thấy chị ở nói chuyện
với tôi, có lẽ đoán “thằng nầy cũng là
một bọn nhà”, nên chúng lởn vởn chơi một
chút rồi chạy nằm “táp ruồi” bên cạnh bồ
lúa.
Tôi chờ một chặp, rồi một chặp nữa.
Quái cái ông nầy! Không biết có phải ông ngủ ban ngày,
để thay vào lúc ban đêm làm ông thần giữa bồ
lúa hay sao, mà trưa đến xế dài ổng cũng
chưa chịu thức dậy.
Hay là ổng ể mình?
Không, không có gì ráo. Khi tôi đã mổi mệt, ngồi
gục đầu lên gối, thì bỗng nghe một hơi
“rò sò sò sò” như bộng nước sôi, tôi ngóc đầu
dòm: quả là ông Chủ!
Ông ngậm một hớp nước, súc trệu trạo
ba cái, ngước mặt lên trời sôi “rò sò sò sò”, rồi
cúi xuống “phẹt” một giọt dài vô gốc cột.
Sau những hồi liên tiếp như thế, ông ôm ngực
ho xù xụ, rồi khạc, rồi lại ho.
Cuối cùng, ông mới tằng hắng, đưa mắt
ngó lom lom ra đường:
- Trẻ ra coi đứa nào, biểu nó vô đây coi!
Tôi mừng như lượm được vàng.
Tôi theo chị ở vòng ra sau vô nhà thì ông Chủ cũng
vừa ngồi lên bộ ván.
Ông co lên một chơn, kéo ống quần, lật lại
trong lau mặt, chùi râu, rồi bỏ xuống, đưa
tay nhè nhẹ kéo cái khay trầu. Ông tỉ mỉ lựa hai
hột cau khô ngâm trong cái chén gần lên meo, bỏ vô
miệng nhai chanh chách, rồi têm trầu nhét vô, rồi nhai
chanh chách:
- Mầy muốn mướn đất hả?
- Bẩm Chủ, phải?
- Ở đâu lại đây?
- Dạ, bên điền cậu Bộ.
Ông Chủ hất hàm nói bằng một giọng khinh
khỉnh chê bai:
- Chắc đã giựt đâu ở bển hết mấy
trăm giạ gì rồi!…
Tôi tức gần bể mật, nhưng nhườn
nhịn:
- Dạ, đâu có? Tôi giao trả đàng hoàng chớ! Không,
tôi làm sao dám qua đây!
- Thôi thôi, tôi sợ mấy ông lắm! Ông Tư Lộ
của tôi đó, cũng giao trả đàng hoàng! Ðàng hoàng
gần hết tám chục giạ của tôi. Ðây rồi
đến điền khác, thế nào nó cũng nói nó giao
trả đàng hoàng! Tôi nói thiệt bây giờ tôi sợ tá
điền hơn sợ cọp. Không có lúa ăn? Tôi giùm.
Không quần áo bận? Tôi cho vay. Thất mùa? Tôi cho nợ…
rồi đến khi lúa chín, lớp chèn nhét bán xài, lớp
giấu đút cờ hạc. Ruộng trúng mà lúa không có.
Ðến lúc nào liệu thế không xong, họ mới
cuốn quần cuốn áo, nửa đêm dẫn vợ,
dẫn con trốn đi mà! Bởi vậy, bây giờ tôi
thấy ai lại mướn đất tôi cũng giựt
mình đồn độp…
- Bẩm Chủ, tá điền cũng có nhiều hạng.
Có kẻ trốn, thì cũng có người trung htành làm
lợi cho Chủ vậy chớ!
- Nói thì tốt lắm! Thằng Tư Lộ, hồi
lại mướn đất, cũng nói trung thành như
mầy nhưng đến chừng nó trốn, chắc nó
cũng xách cái trung thành đó đem theo xài ở
điền khác! Mà thôi, mầy muốn mướn sở
đất nào?
- Dạ, sở của chú Tư Lộ.
- Ạ, té ra mầy hai tin thằng Tư Lộ trốn
mầy mới lại đây?
- Bẩm phải, sở đất đó gần biền,
vừa sức tôi lắm. Thế nào tôi làm cũng có lúa.
- Ðó! Vậy mà thằng Tư Lộ cứ nói là đất
xấu! Mùa nào tao cũng thấy nó chất đầy cà
lang mà khi đập ra, lúa hột biến đâu mất
hết!
Quân gian xảo! Sau này tao mới hay nó giấu đem bán cho
ba thằng Chệc nghe cà vom ngoài đầu kinh để
lấy tiền cờ bạc! Thôi, mà mầy muốn
mướn cũng được, nhưng năm nay tao
tăng lúa ruộng.
- Bẩm, xin Chủ cho bằng như năm rồi.
- Ðược đâu! Từ rày tao phải tăng như
vậy cho mấy người mời. Rủi thằng nào
trốn còn có mà bù trừ.
- Bẩm Chủ…
- Không thưa bẩm gì hết. Chịu, thì làm giấy. Không,
tao để cho người khác. Ðất tao chẳng “ế
ẩm” gì!
Tôi đứng ngây người ra. Bình thường lúa
ruộng của ổng cũng đã nặng hơn
người ta lắm rồi. Nay ổng còn tăng lên
nữa thì cũng bằng làm thí công cho ổng ăn. Tôi suy
nghĩ gần điên đầu. Phải dè… Nhưng
chẳng lẽ tôi lại trở về điền cũ.
Còn mặt mũi nào nhìn người quen. Ăn làm sao, nói làm
sao với cậu Bộ mà mình đã quả quyết giã
từ?…
Tôi bặm môi nói thầm: Thây kệ, làm thử một mùa!
- Dạ, thiệt tôi cũng rán lắm, chớ làm chắc
không thế nào có dư.
- Chịu phải không? Chịu thì làm giấy - đặng
coi làm luôn mùa lúa nầy của thằng tư Lộ
trốn bỏ. Mầy coi gặt, đập rồi giao
hết lúa cho tao. rồi mùi tới tao sẽ tính.
Ông Chủ cho kêu một cậu học trò bên cạnh. Có
lẽ đã quen thuộc nhiêù lần, cậu vô tới là
đã lơn tơn đi tìm cái hộp thiết trên nóc
tủ gần đó, lựa ra một bổn kiểu
mẫu đọc cho tôi nghe.
Tờ lãnh làm
ruộng giao
Nay tôi có lãnh làm 50 công
ruộng cho ông Chủ Trần Háo Nghĩa tiền công tôi
lấy trước phân nửa là 20$. Còn 20$ chờ
đến cấy xong, giao ruộng, tôi lãnh tất.
- Bẩm chủ, tôi xin mướn ruộng, chớ
không lãnh ruộng giao.
- Ậy, việc mướn chác thì mình biết với nhau,
còn giấy tờ phải làm như vậy cho đúng phép.
Phỏng như làm tờ mưóon rồi nủua chừng
mầy trốn có phải lòng dòng cho tao thêm không? Làm như
vầy mầy lãnh làm công, rồi có muốn trốn,
ruộng của tao, bất quá tao gặt lúa trừ. Tao
ngừa như vậy, tá điềnt ao đứa nào
cũng làm kiểu đó, mà có đứa nào kêu ca gì đâu! Bây
giựt của tao thì có, chó tao, ruộng đất minh mông,
chẳng dodòi nào tao thèm giựt của bây!
- Bẩm Chủ, còn tiền lấy thêm: Hai chục
đồng, tôi đâu có hỏi?
- Mầy quê lắm. Tiền đó là tao buộc phải vay,
tới mùa, tao đong lúa trừ. Tao tính mỗi giạ
năm cắc. Phải vay mới có mà ăn đặng làm
chớ, không lẽ mầy cạp đất mà cày ruộng
sao?
- Nhưng… giá lúa bây giờ đến hai đồng
một giạ!
- Thì hai đồng bây giờ. Ðây ra giêng còn tới bốn,
năm tháng nữa. Chừng đó giá lúa lên cao tao nhờ,
sụt tao chịu. Tao dám “cho” như vậy, mà mầy còn
chê rẻ…. thôi, không bằng lòng để ruộng đó
lại cho tao!
Tôi bủn rủn cả người, mồ hôi trên trán
đổ hột. Nếu biết như vầy, thà ở
với chủ cũ còn hơn.
Bỗng dưng hình ảnh trời, sao, hình ảnh miếng
ruộng, hình ảnh bầy cá táp mồi, và phản ảnh
của cảnh tôi bị chìm xuồng, phải năn
nỉ ỷ ôi với con tám Én, thảy thảy đều
hiện ra chập chờn, từ đầu đến
cuối… Tôi ngước đầu dậy nhìn ra sân, nhìn ông
Chủ đang thản nhiên chanh chách nhai trầu, rồi tôi
cuối xuống nuốt nước miếng cái ực,
vỗ mạnh vào vai cậu học trò:
- Ừ được. Thôi viết đi em!
Tôn Sư
Khi dọn đồ về ở cái trại
của chú Tư Lộ, mẹ tôi cằn nhằn:
- Trại tồi tệ như vầy, mà lúa cũng không
mấy trúng lắm, không biết mầy ham là tại làm sao?
- Má đừng lo, bên nầy chủ điền dể, cá
nhiều, mùa tới thế nào con cũng khá.
Rồi trong lúc ở không đợi tới mùa, tôi lân la
đi làm quen khắp điền.
Tôi đến đâu cũng được ngườit a
niềm nở, ân cần. Tiếng ca giọng đờn
làm trung gian gây ra biết bao nhiêu tình thân ái đậm đà.
Nhưng cái nhà mà tôi lui tới nhiều hơn hết
lại là nhà một người đầy dẫy
nghiệp ác: ông thầy Pháp cao đệ.
Sao mà thằng Út nó mê tôi như sam đực gặp sam cái?
Vắng tôi một bữa là nó nhớ, biếng chơi,
biếng cười.
Ông Thầy, bà Thầy có một mình nó là trai nên chiều
như con vua, muốn gì cho nấy, nhiều khi hạ mình
năn nỉ tôi ở chơi đờn ca cho thằng Út
vui.
Con đầu lòng, cô Yến, năm ấy mới
mười bảy xuân xanh. Mặt tròn, mắt sáng, môi
mỏng, răng đều, cái gì cũng được
hết thảy, chỉ trừ có nước da là đáng
phiền!
Tôi không được nói chuyện nhiều với cô,
nhưng lần nào lại chơi cũng được cô
cho ăn chè nóng hổi, và khuya, bó đuốc cho tôi về.
Lần lần tôi được coi như người nhà,
và lần lần, ông thầy cao hứng rủ tôi lên cùng mâm
với ông, nhâm nhí cho có bè bạn.
Một đêm kia, tôi mang đến một chai rượu
đế thượng hạng, vừa gặp lúc ông
đương gậm đùi gà nhậu nhẹt.
- A! Em Sáu mới qua, may quá. Yến đâu con? Ðem them cái chén,
đôi đũa.
- Dạ thôi, tôi còn no, xin thầy cứ dùng.
- Ậy, ậy, no cái gì?… Leo lên mà! Cùng hội cùng thuyền,
chẳng mấy khi… Ðây mừng em một ly nhỏ.
Kể ra, tửu lượng tôi cũng khá, rán cầm
hơi với ổng cho tới khuya.
Ðợi lúc ai nấy mỏi mệt đi ngủ hết, mà
chai rượu đế cũng lưng chừng, tôi
mới thỏ thẻ:
- Dạ, trong nghề phù phép, thầy cũng là bực anh
cả?
- Anh cả thì chưa phải là anh cả, nhưng ở
đây không thấy ai hơn “qua”.
- Nếu vậy chắc thầy có đạo “bùa tổ”?
- Chà! Em cũng biết “bùa tổ” nữa! Mà hỏi làm chi
vậy?
Tôi ngần ngừ:
- Dạ… nếu thầy biết… tôi xin… học.
- Té ra em cũng ham bùa?
- Dạ đó là sở vọng của tôi.
- Mà em học để làm gì chớ?
- Dạ, ai cũng muốn biết để hộ thân và
giúp đời…
Ông thầy ngước lên dòm tôi mỉm cười:
- Em tưởng dễ học lắm sao?
- Dạ, tôi cũng biết là khó, nhưng gắng công
bền chí thế nào cũng nên. Mấy năm rồi tôi
cũng có luyện chút ít.
- Em họ đạo nào?
- Dạ. “Mẹ sanh”.
- Em biết làm bịnh chưa?
- Dạ, biết chút đỉnh, nhưng mấy
đạo “cà tha” của tôi nhiều khi không linh nghiệm
bằng bên thầy.
Ông thầy pháp chăm chỉ nghe tôi nói, rồi cúi xuống
ăn, gật gù, nín lặng. Lâu lâu thầy bưng ly
đánh trót một hơi dài.
Tôi vẫn ngồi hầu rượu.
Ðêm đã khuya lắm rồi mà không thấy ông nói gì nữa.
Tôi nóng lòng đợi mãi không được, buồn ý
đứng dậy xin về, nói một giọng chán
nản:
- Nếu tôi có đường đột hỏi thầy
điều khó khăn đó, xin thầy đừng
chấp nhứt. Bởi lòng tôi hâm mộ quá, nhưng
chắc tôi không có phần gặp thầy, nên…
Bỗng dưng, ông thầy nhường mắt, đưa
tay khoát khoát:
- Không, không phải như em nghĩ. Em đừng buồn.
Sở dĩ tôi không trã lời vội là vì tôi đang suy
nghĩ coi có truyền đạo bùa đó cho em không. Em
phải biết, phép của tôi thì nghiêm nhặt, mà em thì còn
nhỏ tuổi quá. Theo luật định, với
đạo bùa ấy, một thầy chỉ truyền
được có một trò – trò ấy tự nhiên là trò
ruột, phải có đủ đức hạnh. Chớ
nếu đạo bùa mầu nhiệm đó ai cũng
biết và đem ra dùng hết thì còn gì là luật trời,
mà tôi đây còn có tước vị gì nữa?
Rồi ông êm giọng:
- Em à, qua thấy em, qua thương, cũng muốn
truyền lại, nhưng sợ em còn nhỏ tuổi, nóng
tánh hay làm càn.
- Tôi xin hứa với thầy rằng tôi học để
giữ mình và giúp đời, chớ không cố ý giựt
tiền, cướp ruộng của ai cả.
- Ðược, thôi em đưa tay lên ngay bàn Tổ thề
đi, thề độc đi…
Ðạo Phù Thần
Cứ đến canh ba không một tiếng
chó sủa, không một tiếng gà gáy, tôi tắm gội
sạch sẽ, thành tâm đốt một cây nhang, ngồi
thẳng lưng, xếp bằng, chăm mắt nhìn vào
đóm lửa đỏ.
Tinh thần gom vào ý muốn, tay trái chấp trước
ngực, tay mặt họa ấn quyết, thổi ra
một hơi, rồi lâm râm đọc không cho vấp,
bổng trầm theo giọng Thổ:
“Ốm mà xơ
rốp, mà ha xơ rốp, ông chênh cô ró bầm bình, tra ông
bầm boul, tầm đóp, moul xốp rốp, chuồl pral
anh hòng. Lục cu ru truy khà nhum, pol prốt vìa tế ành hong…”
Tập như vậy ba tháng mười ngày. Ðến
chừng mắt nhìn ngọn nhang hết nháy, nín thở không
biết mệt, bên tai có tiếng động không giựt
mình, chừng đó là được: đạo bùa thành.
Mà hễ thành thì nó linh nghiệm vô cùng. Theo lời thầy
tôi, nó dùng được đủ cách: Trừ tà, ếm
quỷ, trị các nọc độc, giải phá bùa khác, làm
mở mắt kẻ thù, làm thương hòa ghét, làm ghét hóa
thương, thù ai có thể làm chết được
họ, thương ai có thể làm cho họ mê… tùy theo tay
ấn mình bắt, tùy theo ý muốn mình quyết định.
Nhưng đừng ai dại đem mấy chữ bùa trên
đây ra học mà xài. Thiếu ấn quyết, trấn
ếm, các “bà” thù ghét, sẽ xẹt xuống bẻ cổ
chết ngay!
Ôm Mà Xơ Rốp…
Ðược đạo bùa linh nghiệm đó,
tôi hả dạ không cùng. Sáng luyện, trưa luyện,
nửa đêm luyện, mong cho mau thành đặng có làm cho
“hả gan hả ruột” một phen.
Khi lúa đã chín vàng, tôi cũng học bùa vừa thành
thuộc.
- Cha! Thầy mình khen nó quá mà không biết nó sẽ linh
hiệu thế nào! Mà thế nào đi nữa, mình cũng
phải thử trước chớ, không. Tổ trác, làm “leo
cây” không kịp.
Tôi đinh bụng và lăm le, nhưng chưa có một
dịp nào thử bùa.
Chiều một bữa cuối năm. Thầy tôi nhắn
qua rằng: Vắng tôi nên thằng Út nhớ lắm.
Tôi tắm gội sạch sẽ, ăn mặc bảnh bao,
định rảo sơ một vòng qua xóm rồi sẽ
đến nhà thầy tôi không muộn.
Nói là rảo sơ chớ bụng tôi đã quyết tìm
cơ hội thử bùa: mà phải thử con gái
trước…
Nhưng khốn nạn quá, mấy bữa trước các
cô đi kiếm củi bơi xuồng về lênh nghênh
đầy rạch, hôm nay rủ nhau trốn đâu mất
hết. Mọi ngày các cô đi câu lội đầy
đồng, nay cũng vắng tanh chẳng có một bóng ma
nào!
Ði khắp xóm, đến đâu người ta cũng
niềm nở, mời mọc, hăm vật gà đãi
rượu, nhưng tới đâu tôi cũng vẫn
lạnh lùng:
- Thôi thôi, cho hẹn bữa khác, hộm nay trong mình tôi khó
ở.
Buồn ý, tôi thả rểu ra ruộng, rồi nặng
nề đi thẳng lại nhà thầy tôi.
Lúa chín đầy đồng. Trời hôm ấy đẹp
quá. Gió chiều hiu hiu từng ngọn. Ðàn cò lũ
lượt vổ cánh lưng chừng không.
Lòng tôi bỗng nhiên khoan khoái lại. Có đạo bùa bỏ
túi, tôi cảm thấy mình có một địa vị
tối cao.
Thiên hạ cùng phục tài “anh Sáu đờn kìm” bao nhiêu,
giờ lại cang kính nễ thêm bấy nhiêu.
Mà rồi đây, họ sẽ kêu mình là “Cậu Sáu” hay
“Thầy Sáu” cũng không biết chừng!
Ừ, có vậy mới được chớ, lẽ nào
tài cán bực nầy mà lại chịu cho họ kêu
“Thằng Sáu kia, thằng Sáu nọ”?
Cái buổi vinh quang đã đến. Cái ngày “nợ nần”
cũng sắp trả xong. Nghĩ đến đó, tôi sung
sướng quá, quên cả mệt mỏi, rảo
bước không mấy hồi là đến nhà thầy tôi
mà tôi không hay.
Chừng trục thấy bụi chuối phất phơ
ngọn lá bên đường, tôi mới đứng
khựng lại.
Trời đã sập tối. Ba con chó trong nhà túa ra sủa
hai ba tiếng, rồi đánh hơi được, xung
xăng ngoắt đuôi mừng.
Tôi lại vỗ cửa:
- Thầy ơi, thầy!
- Ai đó, anh Sáu hả?
- Phải, tôi đây, Thầy Thím đâu rồi cô hai?
Cô Yến rút then cửa:
- Ở nha một mình ban đêm ghê quá! Thằng Út
độc địa, mới chập tối đã vô mùng
ngáy khò khò. Ba má em hồi chiều có dặn: Nếu anh
lại chơi, kêu anh ngồi chờ một chút.
- Thầy, Thím đi đâu cô?
- Qua bên cậu mười em. Mợ mười em khi không
“lên xuống” sao đó, nên ở bển qua rước.
- Rủi quá, thôi để tôi đi về…
- Tội nghiệp, về làm gì anh. Ðây ba má em về nói
tại em không cầm anh, rầy em oan lắm. Anh ngồi
chơi, chờ một chút, em đi nấu chè anh ăn.
- Thôi, tôi không hảo ngọt, mất công cô lắm.
- Công cán gì anh. Ngồi không cũng buồn. Em nấu chè anh
ăn, anh đờn nghe chơi cho ấm nhà. Anh coi, có
một mình, sau trước vắng tranh, em sợ cái bàn
Tổ quá. Chong đèn gì là leo lét như ma trơi!
- Con “nhà tướng” mà sợ bàn Tổ nổi gì?
- Sao không sợ anh! Nhà ở biệt lập giữa
đồng như vầy, ban đêm, gió đưa mấy
tàu chuối oặt oà, rột rạt, ghê hồn. Hồi nãy
chó sủa, em đã thất sắc, chừng nghe tiếng
anh, em mới vững bụng.
- Cô nhát quá!
- Không nhát sao được anh, con gài mà ở một mình
rủi…
- Bây giờ cô hết sợ chưa?
Cô Yến bẻn lẻn:
- Hết…! Mà anh phải ăn chè nghe?
- Ừ, ăn thì ăn.
Cô lui cui bưng đèn xuống bếp còn quay lại
dặn vói:
- Nằm trên ván đó anh Sáu. Nằm một chút cho khoẻ
rồi đờn nghe chơi anh.
- Ðược, để đó tôi, cô!
Nhà vắng vẻ thật. Cây đèn trên bàn Tổ leo lét
trông bắt lạnh mình. Gió rung tàu chuối nghe ào ào. Mấy
con chim ăn đêm ngoài bờ tre lâu lâu kêu lên một
tiếng rợn người.
- Oải! Anh Sáu ơi! Anh Sáu, anh Sáu!…
Tôi phóng xuống đất một cái rộp.
- Cái gì, cái gì?
Tôi đâm đầu chạy xuống bếp. Cô Yến la
thất thanh, đã quăng cây đèn tắt phụp tự
hồi nào rồi.
Tôi chạy thế nào mà nghe tiếng gió sát cạnh tủ,
thân mình cạ vô vách buồng rào rào, tôi quên rằng trong
đêm tối, các cây cột, bàn ghế sẽ va vào
đầu tôi không thương hại.
Nhưng… cô yến đã thẳng trớn chạy lên,
lủi vô mình tôi dữ dội. Ðụng nhau mạnh quá
đến hai đứa té lăn cù dưới
đất… mà cô nằm gọn lỏn trong hai cánh tay tôi.
- Gì đó, gì đó cô?
- Ma! Anh ơi… ma.
- … Ôm mà xơ rốp, mà ha xơ rốp… bầm buôl, tầm
đốp… xốp rốp…
Tôi đọc thần chú lung tung beng, loạn xà bần,
trống ngực đánh đụi, đụi…
đụi.
Cô Yến thở hào hển:
- Ma ở… sau bếp anh à. Em vừa bưng đèn xuống…
hai con mắt xanh… hai con mắt xanh… lè, chờn vờn…
- Không sao, không sao, có tôi, đừng sợ!
Tôi rán đỡ cô Yến ngồi dậy, đưa hai cánh
tay run run, dìu cái thân hình dịu nhiễu cũng run run,
dắt ra trước, đặt cô ngồi xuống ván.
- Cô làm tôihồn vía lên mây!
- Em sớ quá, anh sợ không?
- Sợ gì cô? Nam nhơn chi chí mà!
Tôi làm gan đứng lên, ra mặt bảnh, sửa soạn
xuống bếp.
Cô yến bấu chặt tôi kéo lại, năn nỉ:
- Ðừng đi anh. ở lại với em một chút mà!
Như cái máy, tôi buông rơi mình xuống ván.
Không biết chúng tôi ngồi trong bóng tối như vậy
bao lâu mà… chừng cô Yến, sực tỉnh, thẹn
thuồng gỡ tay tôi ra, tôi mới hoàn hồn.
- Anh làm ơn xuống kiếm giùm cây đèn cho em, kẻo
mất, ba má em về rầy chết.
Tôi cũng bối rối.
- Ừ, ừ để tôi đi kiếm, để tôi
đi kiếm!
Tôi đốt đèn lớn bưng ra nhà sau. Cây đèn cô
yến quăng lúc nãy nằm lăn bên đống củi,
ống khói bể nát.
Tôi vói tay lượm lên, mắt láo liên dòm.
Trong lúc đó tôi mới sực nhớ là mình có đạo
phù thần mạnh mẽ. Tay bùa chú mà nghe có ma đã run
sợ, là một chuyện quái gỡ vô cùng. Tự nhiên tôi
thấy “gan” lên, tay bắt ấn, miệng le lưởi
thổi dọn đường, rồi dạn dĩ
bước thẳng xuống bếp, đưa đèn
rọi.
Con mèo mun nằm trong lò, đưa cặp mắt xanh nhìn
trân trân, rồi như muốn lại mơn trớn tôi, nó
vùng kêu “meo meo”, thẳng lưng phóng xuống đất.
- Cô Hai, cô hai, xuống mà con con ma của cô đây nè!
Thấy mèo, cô yến cười. Rồi cô lăn xăn
đi nhúm lửa.
Tôi hỏi giỡn:
- Ủa, còn chè cháo nữa sao?
Cô liếc xèo tôi một cái như dao phớt:
- Chớ sao!…
Ngồi đợi nồi chè chín, lòng tôi bâng khuâng khó
tả.
Cô Yến ngồi bên cạnh chõng, lâu lâu quạt vào mùng
thằng Út một cái, chăm chỉ đợi nghe tôi ca.
Nhưng tôi, tâm trí đang rối mù, không còn nhóo câu nào là câu
nào, đờn nghe lỏn chỏn chết đời.
Ðầu óc tôi gần bể rạn ra bởi những
cuộc “cãi lộn” lung tung:
- Hay là thừa lúc nầy mình thử bùa?… Ậy, bậy nà!
Con của Thầy mình! Thầy thì Thầy chớ, “thử”
chớ phải “thiệt” sao?… Cha, rủi Thầy mình
biế?… biết là sao được, chỉ có hai
đứa ở nhà… Rủi Thầy mình về bất
tử?
Tôi phập phồng hỏi:
- Cô hai ơi, thầy thím sao chưa về?
- Em cũng không biết nữa. Hồi đinói về
sớm, mà tới bây giờ…
Tôi nhóng:
- Thôi thì tôi về vậy, khuya rồi!
- Ý!… ở lại với em một chút nữa, anh Sáu à!
Trong giọng nói có một chút gì như van lơn quyến
luyến.
Bốn bề lặng lẽ như tờ. Phía sau, lửa
cháy lách tách. Tôi quả quyết, cắn môi: Thây kệ,
thủu càn…
Toàn thân tôi bỗng run lên, trống ngực tôi đánh
rầm rầm. Hai hàm răng tôi cắn khít lại, rồi
“Ôm mà xơ rốp…”
- Cô hai ơi, lại tôi chỉ cái nầy!
Thì lạ lùng thay, linh nghiệm thay, tôi gọi vừa
dứt lời, cô yến vươn mình bước
xuống đất ngoan ngoãn như con mèo sau bếp…
Thình lình, có tiếng cho sủa, rồi chó mừng. Tôi
giựt mình đứng dậy.
- Ba má về…!
Ðang đi lại tôi, cô yến trở mình “cái vụt”
mừng reo, chạy ồ ra mở cửa.
… Mà Ha Xơ Rốp
Tôi tin chắc có sự linh nghiệm của
đạo bùa cũng như người ta tin có sự
thưởng phạt của đất trời. Lúa đã
đỏ đuôi chín. Cả đồng vun một màu vàng
mơ. Tôi chưa kịp báo tin cho ông Chủ hay, thì hôm sau
ổng ngồi xuồng tới trại.
Tôi nói thầm:
- Có lẽ thằng cha nầy tới số! Mình phải
cạy gỡ chút gì mới được.
Từ lâu nay, tôi giấu kín mẹ tôi những điều
tôi học tập, mà hôm đó vì mừng quá, thiếu chút là
tôi khai ráo ra.
- Má coi kia, ông Chủ bữa nay ghé nhà mình đó. Con dám cá
với mà rằng một lát, con xin với ổng gặt
năm chục công ruộng nầy, đong đủ lúa chú
tư Lộ thiếu, còn dư bao nhiêu cho mình hưởng
hết cho má coi.
- Bộ mầy là con ruột của ổng!
- Thì để má coi mà…
Ông Chủ vừa tới cửa. Mẹ tôi khép nép mời
ông vào nhà. Tôi cũng lăng xăng bưng trầu, nấu
nước.
Ông Chủ hôm ấy mặc quần lãnh đen, áo trắng,
có choàng thêm cái bành tô vàng hực. Ông dòm trước, dòm sau,
nhìn mẹ tôi, rồi tằng hắng hỏi:
- Lúa khi cũng chín rồi há?
- Dạ, mới đỏ đuôi.
- Nhà thím được mấy người làm?
- Dạ, có hai mẹ con tôi.
Ông Chủ hơi ngạc nhiên:
- Có hai mẹ con mà dám làm năm chục công ruộng,
cũng gan chớ!
- Dạ, nhòo thằng nhỏ có sức lực với siêng
năng nên cũng tạm xong.
- Chú đâu?
- Dạ, nhà tôi đã mãn phần ba năm nay rồi.
Mẹ tôi trả lời xong, xây lại tôi:
- Con, sao đứng xớ rớ đó? Ði lấy
nước cho chủ tráng miệng uống trà chớ!
Tôi giựt mình: Thiếu chút nũua đã quên chuyện
lớn. Rồi lẹ bước, ra sau, vái lầm thầm:
- Nhờ Tổ linh thiêng, giúp tay đệ tử…
Rồi tôi vẽ bùa trong chén nước: “Ôm mà xơ
rốp…”
Tôi giả bộ cóm róm để chén ngay mặt ông Chủ:
- Dạ, mời chủ tráng miệng!
- Ðược, để đó tao. Cha! Nhà có hai mẹ con,
ở chỗ vắng vẻ như vầy cũng buồn
chớ, thím há?
- Bẩm Chủ, riết rồi cũng quen đi.
Ông Chủ bưng chén nước hớp, súc miệng.
- Thiệt, tôi thấy tình cảnh thím tôi thương quá.
Tánh tôi vậy đó a thím… mà thím thứ mấy?
- Dạ, thứ ba.
- Tánh tôi là vậy đó thím ba à. Tôi thì hay thương
người nghèo, thưong tá điền lắm, mà họ
không nghĩ, cứ trở mặt giựt của tôi hoài.
Như thằng tư Lộ là một.
- Dạ mẹ con tôi tuy nghèo chóo vẫn giữ tánh thiệt
thà ngay thẳng, chỉ biết lo làm ăn thật tình mà
thôi.
- Ừ, như vậy tôi chịu lắm a… thím. Thím rán
ở đây làm cho bền, tôi tử tế lắm chớ
không phải như người ta đâu…
Thấy bùa “có gió” tôi chen vào:
- Bẩm Chủ, lúa mùa nầy không trúng mấy, để
lâu sợ chuột bọ phá hao hớt. Tôi vừa bàn
với má tôi để đến xin Chủ, cho gặt
đập, rồi trả số lúa ruộng của chú
tư Lộ cho Chủ, còn du chút đỉnh, xin Chủ co
cũng như công khó. Làm như vậy Chủ khỏi
mất công kêu người gặt, khỏi phải canh
chừng…
Ông Chủ ngồi suy nghĩ một chặp. thỉnh
thoảng ông nhìn mẹ tôi, nhìn tôi, gục gặc
đầu, nói bằng giọng nhân đạo:
- Cha, thằng tính khôn quá! ruộng nầy đâu có thất
mậy! Ðể cho mầy gặt mão, thế nào mầy
cũng lời ít lắm là năm chục giạ. Phải
không thím ba? Thằng nầy muốn tín cao hơn tôi đó.
Mà thôi, tôi thấy tình cảnh thím còn trẻ mà goá bụa,
nghèo khó tôi thưong. Cho nó chuyến nầy, cũng như
giúp đỡ nó và thím. Thằng Sáu, mầy gặt yết
gì thì gặt. mà phải rán đong cho đủ lúa ruộng
cho tao đa, nghe không?
- Dạ, bề gì tôi cũng phải lo đủ cho Chủ
trước.
Nhưng mẹ tôi lại lo xa:
- Cha! Rủi có thiếu, biết làm thế nào?
Ông Chủ đứng dậy cười khì khì:
- Ối! Nói mà nghe, dầu có thiếu chút đỉnh
cũng không sao. Tôi đã nói thấy tình cảnh thím tôi
thương lắm mà! Thôi tôi về, khi nào rãnh thím qua nhà tôi
chơi đừng ngại…
Ðưa ông Chủ ra khỏi cửa, tôi trở vào hón
hớn, múa tay, múa chân. Nhưng má tôi nhìn lên nóc nhà, mặt
thấy dàu dàu…
Oan…!
Mùa gặt tới
rồi. Khắp đồng như một mâm xôi lớn. Gió
thoảng qua, lúa cửa mình như than thở, lào xào.
người ta tưng bừng đầy ruộng. Ai cũng
lo làm hối; không, lúa ngã sẽ hư hao nhiều.
Tôi chưa kịp đi mướn người gặt
tiếp thì ông Chủ tới nhà:
- Coi, sao thằng Sáu không lo gặt để lúa rực rã
hết còn gì?
Ông quay lại mẹ tôi như để méc:
- Thím coi, đêm ngày nó cứ lo đờn địch ca
xang. Thím la rầy nó chớ! Tôi nghe đâu nó lại nhà ông
thầy pháp Mạnh thường lắm. Ðố khỏi nó
bị người ta dụ dỗ, sa đà rồi quên hết
việc ruộng nương.
- Cám ơn Chủ có lòng lo lắng cho mẹ con tôi. Tôi
nhắc nó hôm qua, song nó còn phải vần công với chú hai
Hoá rồi mới gặt được đất nhà.
- Ừ, thì lo sớm sớm, chớ cũng đã muộn
rồi!….
Ông Chủ có mòi lo cho tôi lắm. Ông đã lậm bùa của
tôi rồi. Hôm ấy ổng cứ nhắc nhở tôi
về việc làm ăn, lại còn ở ăn cơm
tại nhà tôi nữa. Báo hại tôi chạy hết hơi
mới kiếm được cá và đồ nhậu. chai
rượu thứ nhì tôi kiếm được, chưa
kịp đem cho thầy tôi, bị ổng ực vơi
đi hết hai phần. Ổng ăn, ổng uống,
ổng nói chuyện huyên thiên!
- Sao nó lớn rồi mà thím không lo vợ cho nó? “có vợ có
chồng tát biển đông cũng cạn”. Ðể nó có
một mình kham khổ quá, mà thím cũng không ai coi sóc
miếng uống, miếng ăn. Nè để tôi chỉ
cho. Con gái thằng hai Hoá đó, con gì mầy Sáu?
- Dạ, con tám Én!
- Ừ, con tám Én, tám ơi gì đó. Con nhỏ coi phải
thế, dễ thương lắm. Con nhà làm ăn đa.
Cày giỏi, cấy gỉoi, gặt cũng giỏi nữa.
Cha chả phải chi thím đi hỏi cho thằng Sáu thì
nhờ được biết bao nhiêu!
- Nó chưa chịu cưới vợ, Chủ à. Nó nói còn
nhỏ.
- Trời ơi, nhỏ quá! Nhỏ mà gần thành yêu. Thím
để nó lại nhà ông thầy pháp Mạnh hoài thầy
sẽ bắt hồn cho con gái thẩy mà coi!
Tôi giãy nãy:
- Bẩm Chủ, đâu có kỳ vậy được! Con
đó còn nhỏ xíu .
Ổng cười khè khè nặc hơi rượu:
- Mười lăm, mười sáu tuổi mà mầy nói còn
nhỏ! Tại nó đẹt, nó ốm yếu như
vậy, chóo phải là con dòng “làm ăn” coi! Mầy thử
so sánh nói với con tám Én thì biết. Cũng một tuổi
chóo gì. Ðàng nầy coi có phải đúng câu “Con gái
mười bảy bẻ gãy sừng trâu” không. Ý là nó
chưa mười bảy đa. Vậy mà nó làm ăn “dàng
trời đổ lửa” đi mầy ơi! Một mình
nó mà ban đêm chống xuồng đit uần ruộng thì
đố cha thằng ăn trộm nào dám lại gần, đó
họ thằng câu nào dám lén vô! Nó cho “guỵ thủ chủ”
hết thẩy.
Tôi tức tối, nhưng không biết cãi làm sao, đành
trề môi lén một cái rồi bỏ đi ra sau.
Mẹ tôi đỡ lời:
- Tôi cũng tính để rồi coi đâu đó phải
chỗ hỏi đại cho nó. Chỉ sợ là nhà không
đủ ăn. Chủ coi, một đồng một
chữ không có, lấy gì làm sở phí.
- Thì hỏi để đó, rán làm ít mùa ruộng là xong!
Ổng ăn, ổng uống, ổng say, ổng nói,
rồi ổng nằm liệt tại nhà tôi mà ngủ cho
đến chiều.
Mẹ tôi coi bộ khó chịu, kêu tôi nói nhỏ:
- Ổng làm như vậy, tao sợ người ta nói…
- Ối hơi đâu mà lo. Bất quá mình làm “thân” với
ổng cho qua mùa lúa nầy rồi sau sẽ hay.
Ngày sau, tôi khởi đầu gặt vần công với con
tám Én.
Thấy nó, tôi bợ ngợ và tức tối vô cùng.
Nhưng cũng phải nhìn nhận lòi ông Chủ nói:
- con nhỏ làm ăn “dàng trời đổ lửa”.
Nó cầm vòng hái gọn gàng, gặt lia lịa, bó giỏi,
“cò” hay. Tôi theo gần đuối mà cũng không làm sao
rồi công khi nó xách vòng hái đi về.
Con nhỏ lại độc, cứ bắt công gần tôi
để chuyện trò.
Lúc đó tôi mới nhận được ở con nhỏ
một tài đặc biệt nữa: tài hò.
Ở nhà quê, khi tụ tập đông, người ta
thường đối đáp chơi. Con trai ghẹo, con
gái trả lời. Ít thua con trai, nhứt là con tám Én, mà có khi
lại còn cho tụi kia “cứng họng” nữa là khác.
Trong bọn gặt con trai, có thằng tư Bồ là hò
lấn hơn hết và nghe đâu nó phải lòng con tám Én lâu
rồi.
Có lần con tám Én bực mình, tính hạ nó một mẻ:
Tiếng anh ăn học làu thông,
Hỏi anh có biết khăn lông mấy đường?
Ái chà chà, cái con nh3o chơi quá quắc. Nhưng thằng
tư Bồ đâu có lẽ chịu lép vế. Nó cũng
lẻo mép ghê:
Em về đếm hết cỏ vườn,
Lại đây anh nói mấy đường khăn lông.
Không biết có phải con tám Én bị “nghẹn” ở
đó rồi nó sanh ra ghét thằng tư Bồ, hay tại
nó thấy mấy bài vọng cổ của tôi hơn
điệu hò mấy bực, mà nó theo chuyện trò với
tôi. Tôi thì vẫn cứ rủa thầm nó. Vậy mà
thằng tư Bồ đâu có hay. Nó thấy con tám Én cứ
men men lại tôi là nó nghi, rồi nói ghen. Bởi vậy, nó
nhè tôi mà oán “ra mặt”.
Nhiều lúc nó nói xéo tôi trước đông người. Tôi
vẫn mỉm cười, không coi vào đâu:
- Tao mà vẽ bùa, thì mười thằng như mầy
cũng tán mạng!
Tôi hăm thầm như vậy chớ chẳng nỡ
xuống tay, mà cái thằng tư Bồ u mê không biết
thân, lại ham làm già cho sanh chuyện.
Có một bữa nọ ứng khẩu hò:
Thấy cô nho nhỏ, tôi muốn bỏ cái nghề
đờn,
Theo cô làm tùng giả, đánh quờn cho cô coi.
Có chán chường chưa? Có rõ rệt chưa? nghề
đờn là nghề của tôi, còn biết xem quờn là
con tám Én. Ông già hai Hoá có truyền lại cho con gái một mớ
nghề.
Khi nó hò xong câu đó, con tám Én gặt bê lại gần tôi,
nói nhỏ:
- Cái thằng có giọng hò đáng ghét quá anh há?
- Ừ, bữa nào “qua” sửa lưng nó một cấp cho
nó tởn.
- Ý không nên! thằng đó là học trò ruột của ba em.
Nghề võ nó giỏi lắm.
- Giỏi mặc nó chớ. Nó mà làm gì đuợc “qua”.
- Vậy anh cũng biết nghề nữa à?
- “Qua” không biết gì hết. Nhưng sức của nó, “qua”
sè bàn tay là nó nằm một đống!
Con tám Én dòm tôi với một vẻ mặt kinh dị:
- Anh có tài như vậy mà hồi giờ em không dè chớ!
- Dè sao được mà dè! Còn có nhiều cái “lạ lùng” mà
em không dè nữa! việc đó sau rồi sẽ thấy.
Nói rồi tôi nghinh nghinh nó như trâu đang hăng. Con tám
Én cười:
- Anh nói chơi…
- Thuở giờ “qua” có nói chơi với em lần nào
đâu? “Qua” mà, em!
Nói chuyện vỏn vẹn với con tám Én có bấy nhiêu
đó mà hôm sau thiên hạ đồn rầm lên rằng: “Con
tám Én “tò tí” với thằng “Sáu đờn kìm” ngoài
ruộng!”
Phật mà có nhào lộn ngược xuống bàn cho chưa!
Cái thù chưa trả, cái hận còn đây, “tò tí” là “tò tí” làm
sao?
Nhưng tôi rán dằn lắm, dằn lắm mới chỉ
ấm ức lầm thầm: “Rồi một ngày kia mấy
người “tò tí” hay “tí tò” gì cho biết!”
Trả công qua lại gần nửa tháng mới rồi,
nhưng lúa vẫn còn “cò” phơi ngoài ruộng.
Tôi phải đi tuần nghiêm nhặt vì bọn trộm
lộng lắm. Hở một chút, mất cả lúa
xuồng.
Vào một đêm không trăng, trời chuyển mịt mù
tối đen, rồi mưa rỉ rả.
Mẹ tôi lo lắng không cùng, kêu tôi than vãn:
- Trời mưa trái mùa như vầy hư lúa hết, thêm
một nỗi trộm đạo thừa dịp ăn
cắp không chừng, con chịu khó đi canh một vòng
rồi về ngũ.
Trời lạnh thấu xương, nhưng không nỡ
để cho mẹ lo buồn, tôi xách áo tơi bưng
lồng đèn ra đi.
Tôi chống xuồng giáp một vòng ruộng, đến
gần ranh của con tám Én, bỗng nghe có tiếng rù rì. Tôi
lập tức ngừng xuồng lại lóng tai nghe: Ai kìa?
Những hột mưa rơi lắc rắc trên vành nón lá
làm lấp tiếng mất tiếng còn.
Tôi đứng tần ngần suy nghĩ coi kẽ trộm
hay người nhà. Cái đèn lồng tắt mất hồi
tôi mới ra ruộng. Tiếng rù rì ngưng đi rồi
lại nổi lên từng chặp.
- Giờ không lẽ đứng hoài đây chịu? Tôi
nghĩ vậy bèn gò xuồng tằng hắng. Tiếng
người mất hẳn. Thôi, phải rồi ăn
trộm.
Tiện đường không nỡ để con tám Én
mất lúa oan uổng, tôi chống lẹ xuồng qua
nạt lớn!
- Ai đó? Ăn trộm lúa phải không?
Có tiếng giầm rớt bên be xuồng, rồi tiếng
chạy ào ào. Thình lình một cây đèn ló chịa vào mặt
tôi…
- Hà, đi đâu đấy, mầy mới quả thật
là ăn trộm!
tôi vừa kịp nhận ra là thằng tư Bồ thì
một cây sào dài đâu vụt tới.
Tôi hoảng hồn biết không xong, bấm tay đọc
bùa hộ mạng: …Ôm mà xơ… nhưng trễ quá rồi,
cây sào đưa một cái “rốp”, ống quyển tôi
như muốn gãy lìa. Tôi té nhủi xuống nước,
bị hai người áp lại đè thúc đầu
gối vào lưng tôi.
Thằng tư Bồ đắc thắng:
- Mầy cả gan dám qua đây ăn trộm lúa hả?
- Ðồ khốn nạn, đừng lầm, tao đi
tuần…
- Hứ, đi tuần! Sao nhè lại… đi tuần trong
ruộng tao?
- Nói bậy, ruộng của cậu Hai mà!
- Ruộng của câu hai thật, nhưng tao lãnh canh giùm. Còn
mầy… đồ ăn trộm!
- Khốn nạn, tiểu nhân, vu cáo!
- Có vu cáo không rồi sẽ biết. Xuồng đây, lúa
đây, tao bắt được mầy tại chỗ
nầy là cứ đem về cho cậu Hai định
đoạt!
Tôi tức quá, phần bị nó nhận cứng dưới
khoang xuồng, phần bị nghẹt, thở chẳng ra
hơi, tôi không thèm cãi vã làm chi nữa, cầu cho nó đem
về nhà phức đi là hơn.
Thằng tư Bồ cùng với bạn nó lấy chăn
tắm trói ké tôi lại, mở lòi tòi xuồng xiềng
chơn tôi, dòng chiếc xuồng tôi sau lái, hối hả
chống về….
… Nghiệt!
Tiếc thay có một đạo bùa linh
nghiệm mà tôi không dùng kịp để ra đến
nỗi nầy. Nhưng ai có dè? Ai có dè được cái
trở mặt hèn hạ tiểu mọn của thằng
tư Bồ?
Nếu tôi biết thế, tôi chỉ hoạ bùa sớm
một chút, đọc thần chú sớm một chút, nó
sẽ biết tay tôi trừng trị nó cách nào kìa!
Nghe bắt được trộm, cả xóm rần
rần lại coi. Con tám Én ở đâu ngoài ruộng
cũng chống xuồng xồng xộc về.
Dưới ánh đuốc cháy sáng, con tám Én trước
nhứt chạy hầm hầm lại coi mặt thằng
“ăn trộm” thế nào.
Thấy bóng nó, tôi nóng ran ở màng tang, máu trong mình như
sục sục sôi lên:
- À há!…
Giá lúc đó nếu tay tôi không bị thúc ké thì… ấn thiêng
kia tôi phẩy một cái, tiếp theo một tràng… Ôm mà
xơ rốp… cả một lũ cáo chúng nó sẽ ngã ra
như rạ.
Con tám Én đứng khựng trước mặt tôi:
- Trời… anh Sáu!
Nó run lên, nó lảo đảo, nó làm bộ mếu máo:
- Anh Sáu, anh… ăn… trộm sao?
Trong lúc đó, thằng tư Bồ đứng cười
khúc khích.
Ðây là lần thứ hai, tôi mang thêm cái nhục tày đình.
Từ lúc để cho thằng tư Bồ trói ké chở
về, tôi như điên cuồng, loạn óc, tức
tối đã lên tới cực điểm. Khi cái giận
dữ nó đã lên cực điểm rồi, thì nó lại
trở nên rất nguội lạnh hiền lành! Tôi đã
ở trong tình trạng ấy. Cho nên đáng lẽ phải
la ó, chử mắng, giãy giụa, đằng nầy tôi
lại lạnh lùng, lạnh lùng khinh thường.
Thấy mặt tôi “lì lì”, con tám Én còn xăng văng xéo véo
hơn nữa, mếu máo hơn nữa:
- Anh Sáu, anh Sáu!
Bỗng, một tiếng nạt dữ dội, tiếp theo
cái chát đánh vã vào mặt, con tám Én ngã ra, té bò càng.
- Ðồ khốn nạn! Con gái hư! Mầy muốn binh nó
hả?
Tôi giật mình ngước lên. Thằng cha hai Hoá ở
trần trụi trụi, ngoài ruộng vừa về.
Hắn vẹt người ta, hầm hầm bước
vào điểm mặt tôi!
- Mầy…
Hắn khựng lại khi nhìn ra tôi, nhíu trán hỏi cụt
ngủn:
- Mầy… ăn trộm lúa?
Hắn đưa tay lau mồ hôi trên chơn mày rồi
lấy khăn tắm bịt trên đầu xuống.
Vẻ hung ác trên mặt hắn lần lần giảm
đi. Hắn hỏi lại, thong thả hơn:
- À, té ra thằng Sáu mấy ăn trộm lúa của tao?
- Khoan, cậu Hai, cậu hãy hỏi kỹ lại rồi
sẽ buộc tội.
Thằng tư Bồ nói hớt:
- Nó chống xuồng vô ruộng đang lom khom vác lúa,
bị thằng Năm Ô nện cho một cây!
- Ðồ khốn kiếp, cũng còn vu oan!
- Chớ mầy không ăn trộm, mầy chống
xuồng qua ruộng làm gì?
- Ðã nói, tao nghe tụi bây rù rì, tao tưởng ăn
trộm, qua hỏi giùm.
- Láo!
Tôi trề mội một cách khinh bỉ, không thèm cãi với
nó nữa, day qua nói với hai Hoá:
- Làm ơn mắc oán, thói đời thường gặp!
Cậu Hai, tôi lạnh lắm, cậu cho tôi vô nhà. Rồi
cậu cho mời ông Chủ lại đây giùm tôi!
Thấy tôi nói cứng, hai Hoá hơi sợ sệt, hỏi
gạn lại thằng tư Bồ:
- Mầy nói nó qua ăn trộm lúa thiệt chơi?
- Thiệt chớ cậu! Cậu hỏi thằng năm Ô
thì biết!
Tôi “xì” một hơi dài.
Hai Hoá cúi đầu suy nghĩ. Lâu lắm lão mới nói:
- Thôi, vô nhà rồi sẽ hay!
Con tám Én núp sau lưng vòng người quanh tôi lấm lét dòm.
Thỉnh thoảng nó rút khăn vằn khịt mũi. Tôi
chỉ thản nhiên nhổ một bọt nước
miếng trên đất rồi dõng dạc.
- Ê! Khiêng tôi vô nhà với chớ!
Trong lúc ấy, ở ngoài một người vẹt thiên
hạ chạy vào ôm chầm lấy tôi, khóc nức nở.
- Con ơi! Sao vậy con?
Tôi bỗng thấy ruột gan tôi thắt lại, nhưng
gượng làm tĩnh:
- Má đừng lo, người ta vu oan cho con. Ðể ông
Chủ lại con sẽ nói rõ. Ðâu cũng có luật vua phép
nước, ngay gian rồi sẽ tỏ như ban ngày mà yên
lòng đi mà…
Tôi càng nói ngang tàng bình tĩnh bao nhiêu, hai Hoá càng bối
rối thêm bấy nhiêu. Hắn dòm mẹ tôi như muốn
giải hoà:
- Thím coi, tôi không biết gì hết. Việc đâu ngoài
ruộng, thằng tư Bồ bắt được
thằng Sáu chở về, nói nó ăn trộm lúa của
tôi. Thiệt bậy bạ quá chừng!
Nói xong, hắn lại gần tôi, toan mở trói, nhưng tôi
hầm hừ:
- Không, không, cứ để vậy cho tôi mà!
* * *
Ông chủ tay xách cây ba ton gù, tay cầm đèn
ló bước vào.
- Bẩm Chủ… bẩm Chủ… bẩm Chủ…
Thiên hạ rền lên rồi nín thở để chờ
một trừng trị gớm ghiếc. Vì theo mọi
lần, hể bắt được ăn trộm, không
cần hỏi đầu đuôi, ông Chủ thấy
mặt là giơ ba-ton lên “khệng” lấy “khệng”
để. Ðó là chưa kể ổng “sửa lưng” theo
lối “điểm huyệt” hay sửa “giò gà”!
Thằng bợm nào gặp ổng thì chỉ còn có
nước tu bỉ xách rổ quảu ra ngồi ở ngã
ba đường!…
Ông chủ đang hầm hầm, bỗng đứng
dừng lại, trợn mắt:
- Ủa thằng Sáu mà!
Hai Hoá chấp tay:
- Bẩm Chủ, thằng Sáu đờn kìm!
Tôi chưa kịp lên tiếng, mẹ tôi đã đứng
dậy:
- Bẩm Chủ, người ta phao gian cho con tôi.
Ông Chủ day lại:
- Ủa, có thím ba đây nữa sao? Kỳ chớ, thằng
Sáu mà đi ăn trộm nổi gì!
Tất cả vòng vây đều thở dài, không biết
thất vọng hay mừng giùm cho tôi.
Tôi vẫn ngồi yên, gục đầu cho ông thấy rõ
hai tay tôi bị trói ké.
Mẹ tôi kể lể:
- Chủ nghĩ, tôi sai nó đi canh ruộng, chớ
thuở giờ nó có làm điều gì xấu xa đâu!
Vậy mà người ta đánh đập nó, trói ké nó, bâu
xấu nó…
Ông chủ nói một cây đáng ngàn vàng:
- Thím yên lòng, để tôi xét lại. Nếu quả
thằng Sáu bị oan, lũ nầy nó sẽ biết tay tôi.
Thằng tư Bồ nãy giờ còn hí hởm, nghe tới câu
đó nó cũng điếng hồn. Hai Hoá ngồi xuôi
xị coi bộ đã sợ hãi chẳng cùng.
- Ðem cho tao cái ghế! Mở trói cho thằng Sáu ra, bây sợ
nó độn thổ, tàng hình hay sao mà trói riết nó dữ
vậy?
Mặt ông Chủ bây giờ nghiêm nghị lạ
thường , không hầm hầm như khi mới lại,
mà cũng không hiền từ như lúc nói với mẹ tôi.
Ông ngồi phịch xuống ghế trong lúc thằng tư
Bồ ké né lại mở trói cho tôi. Thấy tay nó run run, tôi
thương hại quá, gần như trở lại
tội nghiệp giùm cho nó.
- Ðứa nào bắt thằng Sáu đờn kìm? Ra đây! À,
mầy, thằng tư Bồ há! Ðầu đuôi làm sao, nói
đúng lại cho tao nghe. Gian dối tao tra được,
tao đập nát đầu!
Thằng tư Bồ cóm róm, kể lấp vấp
lưởng vưởng. Tôi không thèm đối nại,
cứ lâm râm đọc thần chú và vẽ bùa.
Khi nó chấm dứt, tôi mới đem đầu đuôi
thuật lại và kết thúc bằng một câu:
- Nếu tôi là một kẻ khốn nạn có lòng gian tham
của kẻ cùng điền, tôi bằng lòng chịu
hết tội vạ dưới đât và tội vạ
của trời.
Lòng tin tưởng ở đạo bùa kiến tôi nói
mạnh mẽ quá, hùng hồn quá, chắc chắn quá!
Cả thảy đều lặng thinh nghe, ông Chủ
lắng tai nghe.
Thằng tư Bồ không một lời chống chế.
Hai Hoá đứng trân trân, im lìm như ngậm thẻ.
Cả thảy đều chờ sự quyết
định của ông Chủ. Ông nầy lấy tay xe xe
mấy cộng râu trên, gặc đầu, rồi mỉm
môi, nhăn mày…
Bỗng, trong cái im lặng , ngột thở ấy, ông vùng
xô ghế đứng dậy, nạt một tiếng vang
nhà cửa:
- Rồi bây giờ, bây không chịu cúi xuống lạy nó
đặng xin lỗi hả?…
Muộn màng
Ðã lâu lắm rồi, tôi không đến nhà cô Yến. Lúa thóc
bề bộn làm cho tôi xao lãng nghĩa thầy trò. Có lẽ
thầy tôi cũng biết vậy, nên không sai người
lại kêu gọi.
Không biết thằng Út vắng tiếng đờn của
tôi, giờ buồn bã ra làm sao, và cô Yến, bị “ma”
chụp một lần, thần hồn nay đã thế nào?
Nhiều khi tôi muốn nán ra vài giờ để
đến viếng thăm, nhưng mà những chuyện
qua còn ràng ràng đó, làm tôi ngao ngán nỗi đi về…
Chiều nay, cặp giò tôi đã bớt, mà nỗi nhớ
nhung khi đã tăng nhiều. Thay thay đồ đi quanh
quẩn một chặp, rồi không hiểu sao thuận
đường đi luôn đến nhà cô Yến.
Dọc đường tôi lo lắng: Chẳng lẽ
chuyện lùm xùm lên như vậy mà thầy mình không hay. Hay
là thầy mình đã khinh bỉ mình rồi?…
Nhưng tôi tự nhủ: Có lý nào? Mấy hôm rồi, có
người bên xóm thầy mình qua, nói thầy mình
thường nhắc nhở mình luôn, và cũng không nghe nói
lời gì bóng gió trách móc.
Tôi vững bụng đi. Gần tới nhà nghe tiếng
trống lung tung, tôi giựt mình tự hỏi: Cúng! Mà cúng
cho ai?
Bước tới thềm, ba con chó không quên, chạy ra
quấn quít. Tôi xô cửa bước vào.
Ðang bày trận lăng xăng, thầy tôi trực thấy
tôi ngưng đọc thần chú:
- Em mới qua!
- Dạ, thầy cúng cho ai đó?
Thầy tôi cúi mặt buồn dàu dàu:
- Con Yến!
Trời, cô Yến! Tôi rụng rời hết cả thân
mình.
Vừa lúc ấy, bà thầy dưới bếp bước
lên nhìn tôi ứa nước mắt. Thằng Út đang xách
bình trà, chạy lại tôi, mừng quýnh:
- A, anh Sáu!
Tôi vuốt đầu nó, ngước hỏi bà thầy:
- Cô Yến đau sao đó thím?
- Ôi em ơi, nói ra càng thảm, cũng tại “nhà tôi” bỏ
nhà đi hoài nên mới ra nông nỗi nầy…
Tôi kinh hãi tưởng chuyện mình đã bại lộ
rồi, toan sắp đặt trả lời, nhưng bà
tiếp:
- Từ hôm tôi với nhà tôi qua bên mợ Mười nói
tới nay, nó càng ngày càng biến sắc. Nó yếu bóng vía
sẵn, mà nay ổng đi, mãi ổng đi, không lo gì
hết, chừng thấy nó lẩn thẩn, lẩn
thẩn, nói nhảm, ốm o, ổng giựt mình coi lại
thì nó đã bị con ma Bàn Tổ. Nó đau trên tháng rồi
em à. Em lại mà coi. Bây giờ nó ốm đến không còn
nhìn được.
Tôi buồn rầu, đi men lại bên giường. Cô
Yến nằm thiêm thiếp, chốc chốc lại
cựa mình ú ớ.
Tôi thở dài hỏi thầy:
- Rồi thầy cho cổ uống thuốc gì?
- Thuốc gì mà uống cho hết. Cách mấy ngày đây nó
lại bị Quỷ Vương lậm quá, tôi lật
đật chữa quyết mà chưa thấy giựt giảm
chút nào.
- Chữa thì phải chữa, nhưng cũng nên uống
thuốc thêm cho nó giúp sức. Sao thầy không lại
thầy ba Ðắt hốt thử ít thang coi?
- Thầy ba Ðắt mà ăn nhằm giống gì? Trục
hết mấy con Quỷ Vương ra, tự nhiên nó
mạnh.
- Sao thầy không trục?
- Trục chóo, ngặt một mình làm không xuể. Quỷ
Vương có tới năm đứa lận: một
đứa mặt xanh, một đứa mặt
đỏ, một đứa mặt trắng, một
đứa mặt vàng và một đứa mặt đen…
Nói tới đây, ông kéo tôi ra ngoài:
- Em luyện đạo bùa thành chưa?
- Dạ thành.
- Mạnh không?
- Dạ, mạnh lắm.
- Ðược, mai em tiếp với thầy ăn thua
với lũ nó một phen. Thầy quyết một còn
một mất!
Nghe tới đó tôi bắt rùng mình. Cự với
người bằng xương bằng thịt thì tôi
chấp sợ, dẫu thua tôi cũng biết
đường chạy. Ðằng nầy với một bóng
ma! Nó đến lúc nào? Nó đi phía nào? Tôi đâu có
được “huệ nhãn” như thầy tôi! Nhớ
tới chuyện quỷ bẻ cổ người ta, tôi
bỗng rợn tóc gáy. Nhưng thầy tôi đã mưọn
chữa cho cô Yến, dẩu tôi chết tôi cũng không
từ.
Tôi ngồi chơi một chút rồi kiếu ra về. Tôi
bước lại nhìn cô yến một chút. Cô nằm sát
trên chỗng, xếp ve. Tôi bùi ngùi đưa tay rờ trán cô
rồi kêu nhỏ nhỏ:
- Cô Yến! cô Yến!…
Ðang mê man, cô Yến từ từ mở mắt, trợn lên,
nhìn tôi dữ tợn rồi chơn tay chòi chòi trên chiếu
như muốn chồm dậy. Tôi thất sắc
bước lui ra. Thầy tôi lẹ chơn bước
đến đè cô xuống, niệm một câu thần chú,
bắt ấn vuốt cho cô, rồi kéo tôi xa ra, nói nhỏ:
- Thấy lạ, nó muốn làm dữ!
Lòng tôi bỗng như se thắt lại, nước mắt
gần trào ra.
Ôi, mới hôm nào, cũng trong gian nhà nầy mình ôm cô trong tay,
nghe trái tim cô đập, nhìn cặp mắt cô hữu duyên,
nghe giọng cô trong trẽo mà bây giờ…
Tôi từ giã ra về, lòng tràn ngập nỗi buồn
sầu.
* * *
Ngày hôm sau, tôi thưa với mẹ tôi tự
sự và xin phép đến chữa cho cô Yến.
Ra đi, tôi hăng hái lạ thường, miệng cứ
lẩm nhẩm câu thần chú cho thiệt lâu, lâu lâu thủu
bắt ấn.
Trong nhà, thầy tôi đã sắp đặt đâu
đấy sẵn sàng cả rồi. Trận ví trong
buồng. Cô Yến nằm thiêm thiếp trên chõng. Chugn quanh,
thầy tôi treo chỉ giăng giăng. Dọc theo sợi
chỉ có dán mấy hình nhơn bằng giấy vàng,
bụng có vẽ bùa son. Dưới chân cô Yến là một
cái hũ có lá bùa bịt nắp hờm sẵn. Phía trên
đầu giường là một cái ghế có ấn
Tổ.
Bà thầy bưng lên một cái sàng có 5 cộng mo, năm
khứa trứng gà, năm vắt cơm, một gói nổ.
Thầy tôi cầm cây roi mây dài dặn lần:
- Nè, em đứng án cửa buồng, hể nó nhập vào
con Yến thì em bắt ấn cầm lại. Ðể
thầy năn nỉ, chừng nào nó không chịu, mình
mới bắt quyết vô hũ. Coi chừng, miệng luôn
luôn đọc bùa, tay giữ ấn quyết, hỏo
một chút là có hại đến mình nghe…
Tôi dạ dạ nghe lời, nhưng bụng phập
phồng thót ruột. thầy khởi đầu
đốt sáng mấy cây đèn chung quanh trận, dặn
thêm.
- Nè, khi tôi năn nỉ nó không được, bắt nó vô
hũ rồi em nhớ bắt ấn hồi sanh, vuốt
qua mặt con yến, thổi một hơi dài cho nó
tỉnh lại nhé!
- Dạ.
Xong, thầy đốt bùa, cầm gươm bằng cây
vòng có vẽ hình sao bắc đẩu, hươi chỉ
vào cô Yến, phát trâm lên những tiếng gì líu lo như
tiếng Lèo, rồi đập mạnh xuống bàn Tổ
hét:
- Các ngươi có chịu trả hồn vía con yến
lại không?
Cô Yến đang nằm, vùng mở mắt trừng
trừng. Thầy liền giậm cẳng nhảy lên giường.
Bị động, cô yến trở mình một cái nhẹ.
Thầy liền chụp con dao để trên bàn cúng. Tôi kinh
hãi tưỏong đâu thầy giận dữ chém cuống
một lát thì còn gì là cô yến…! Nhưng không, thầy
trợn mắt, phùng mang, đưa dao lên hăm doạ
rồi đọc tuôn ra một hơi, mời “năm ông”
(ngũ hổ) trợ chiến:
“Thần kim phục vọng, kiết mẹ Chằn tinh,
cư hải động oai cường, chức thông
biến hoá, đã nên tài thái cả, phải mặt oai linh.
Bữa bà ăn ba động yêu tinh, khát nước
uống sơn khê suối cạn. Miệng niệm chú thâu
bình bá vạn, ăn thhịt tà xương chất
đầy non. thuở xuân xanh tuổi nọ còn son, ở
thạch động khi không bà thai nghén. Ngày thổn
thức, đêm nằm chẳng chuyện. hai mươi lăm
năm bà mới sinh thai. Tháng mười hai sanh đặng
năm tướng dị hình dị tạng. Bà đem
nơi cốc xứ bỏ năm chàng. Nơi thạch
động bà về. Chúa sơn lâm xem thấy ủ ê, bèn
cán trái cho ăn làm nghĩa…”
Kế tiếp theo một tràng tiếng Lèo nữa, thầy
nạt lên một tiếng lớn, mặt trở nên ghê
gớm lạ thường, miệng nhai xàm xạp, phun phèo
phèo, rồi thầy đưa cây dao lên cứa cánh tay gân
guốc. Máu túa đỏ. Thầy kê miệng nút,
ngước mặt lên phun vào mình cô Yến một cái phèo…
Tôi đứng bắt ấn, niệm chú, trấn ở
cửa buồng mà cũng thấy ròn rợn nơi
xương sống.
Thình lình thầy liệng dao, xách roi quất trên không từ
đầu xuống chân cô Yến, chụp lấy cái hũ,
kèm theo cái “kiếng linh” rọi từ cổ đến ngón
chân cái và đưa ngay vô miệng hũ nhiều lần.
Xong, tay chụp lá búa ém chặt miệng hũ thầy day
lại tôi:
- Sáu!
Tôi đang há hốc với những kinh dị, trực
trớ lại lời thầy dặn, bỏ cửa,
chạy riết lại giường cô Yến, bắt
ấn hồi sanh, đưa tay lên run run vuốt mặt cô
và thổi phá từ đầu xuống bụng.
Cô Yến đang nằm im lìm, liền nấc lên một
hơi dài.
Tôi mừng quá kêu:
- Cô Yến tĩnh lại rồi thầy ơi!
Thầy tôi còn cầm cái hũ hớn hở chạy
lại.
Bỗng dưng thầy biến sắc, đưa tay
rờ qua lỗ mũi cô Yến, rồi vùng buông rơi cái
hũ xuống đất bể làm hai, khóc rống:
- Ối trời ơi! Ối quỷ thần ơi! Quỷ
Vương đã bắt con tôi đem đi theo rồi!...
Tử Thù
Con tám Én với tôi nay đã là kẻ tử
thù. Cô Yến chết, phải chăng một phần vì nó,
phải chăng vì những chuyện lùm xùm dây dưa
đến tôi phải chịu muộn màng không
được cùng cô Yến khuyên lơn hay nghe vài lời
vĩnh biệt?
Tôi căm gan nhớ lại cái đêm nào! Ừ, cái
đếm nào ấy, nó đi đâu? Nếu không phải là
cặp với thằng tư Bồ ngoài ruộng và xúi
thằng nầy bắt sống tôi?
- Ái chà! Chúng bây lại xách theo thằng Năm Ô để
gác đường… Kỹ lắm, chúng bây kỹ lắm nên
khi tao lên tiếng là con tám Én chuồn đi, để hai
thằng khốn nạn ở lại dở trò… khốn
nán!
Hứ! tư tình lén lúc giữa đồng mà lại còn xách
cây đèn ló theo! Con tám Én ơi, tao với mầy không còn
tình nghĩa gì nữa rồi! Trước kia tao còn vị
lòng tử tế của mầy nên gác qua chuyện cũ,
nay mầy lợi dụng lòng tử tế của tao mà
trở lại hại tao. Mầy giả dối hiền
lành với tao, giả dối vui cười với tao,
giả dối nói xấu thằng tư Bồ với tao…
giả dối, giả dối, giả dối… để
rồi chúng bây toan hạ cuộc đời tao xuống…
Nhưng trời cao có mắt, rồi chúng bây hãy sửa
soạn mà xem tao trả thù!…
Tôi càng nghĩ càng tức, giận mình không có con mắt tình
đời, giận mình sao không “thư” đại nó
một lá bùa hôm gặt lúa.
Giờ, chuyện đến thế nầy, mong gì
được tự do gặp nó lần nữa?
Ðêm ấy, theo lịnh ông Chủ truyền, thằng tư
Bồ riu ríu cùng thằng Năm Ô quỳ xuống lạy
tôi, hai Hoá lại năn nỉ tôi thì con tám Én ở sau thò
đầu ra hầm hầm giận dữ. Có lẽ
nếu ăn gan tôi được, nó đã nhảy xổ
lại moi bụng tôi ra rồi.
Tôi thấy tôi với nó từ đó là hai địch
thủ ghê gớm. Phe nó có võ, tôi có bùa. Hai bên “găng” nhau,
chỉ chực hở một chút là vồ nhau như hai con
thú dữ.
- Ừ, thì chấp cả lủ chúng bây đó, chấp cha
lẫn con, chấp thầy lẫn trò. Tao luyện bùa tao
lại, rồi có ngày bây sẽ kéo nhau ra đền tội
mà!
Trong lúc đó, ông Chủ đã “mám” bùa tôi nhiều thêm,
cứ lân la đến hà tôi chơi mãi. Ðêm ổng xử
bọn hai Hoá lạy tôi xong, ổng kêu con tám Én phải
dầm mưa đi kiếm “cỏ hôi” về bó cẳng cho
tôi, lấy rượu thuốc ra cho tôi uống ấm
bụng. Ổng bảo: “cha làm con chịu”, rồi ổng
kêu tôi xuống xuồng ổng chở về nhà giùm cho.
Thấy tình ổng đối với tôi, tôi cảm
động quá.
Mẹ tôi kiếm hết cách từ chối, nhưng
ổng làm mặt giận:
- Hay là tôi xử như vậy thím chưa vừa bụng?
Thím coi, tôi thấy nó bị đánh oan, tôi thương, tôi
lo lắng cho nó, để đền bù tội lỗi
của tá điền cũ của tôi. Dầu sao, đám
nầy cũng đã lầm lỡ rồi, không lẽ
bắt chúng nó chở thằng Sáu về rồi ở nuôi nó
được. Chúng nó cũng nghèo, cũng đang lo làm mùa
ruộng cho xong, tôi mới nhơn tay, chớ hành hạ
chúng nó cũng tội nghiệp, không ích gì.
Thì đây sẵn xuồng, bầy trẻ đưa tôi cùng
về một đường, thím từ chối là từ
chối làm sao?
- Bẩm Chủ, mẹ con tôi ngàn năm cũng không dám quên
ơn Chủ, lẽ nào lại không vâng lời, nhưng làm
nhọc lòng Chủ quá, mẹ con tôi không yên!
- Gì mà nhọc lòng? Không có nó, tôi lại không về hay sao?
Thím cứ kể là tôi thay mặt cho đám nầy
đền bù chút tội lỗi…
Ông Chủ nói câu ấy làm cả xóm đều ngùi ngùi,
nhứt là phe hai Hoá đứng lặng trang nhìn ông bằng
cặp mắt biết ơn không thể tả.
Xuống xuồng, mẹ con tôi ngồi im thin thít. Ði
khỏi nhà hai Hoá một đổi, ông Chủ bỗng
cười xoà lên:
- Thím thấy không, tôi thương thằng Sáu quá nên mới
xử “chìm xuồng” như vậy. Ðáng lẽ bình
thường, oan ưng chưa biết, bắt
được ăn trộm là tôi đóng trăng tại
đó, đánh cho nhù tử rồi sáng đem ra làng, ra sao thì
ra!…
Mẹ tôi chỉ biết trả lời:
- Ngàn lần cám ơn Chủ, muôn lần cám ơn Chủ!
Ðến nhà, ông Chủ sai tên bơi xuồng đỡ tôi
dậy và dìu lên. Chính mình ông rọi đèn cho mẹ tôi và níu
giữ cho mẹ tôi bước đường trơn
khỏi té.
Ông ngồi cà kê dê ngỗng một chặp rồi mới
chịu ra về.
Nhưng khi ra khỏi cửa, ông bỗng nhớ trực
lại một chuyện gì, bèn trở lại ngoắt
mẹ tôi ra ngoài.
Tôi nằm trong nhà nghe mẹ tôi nói lấp vấp:
- Cám ơn Chủ, tôi không dám!
Và tiếng ông Chủ đáp
- Ậy, không hề gì mà…!
Ổng đi rồi, mẹ tôi buồn bã trở vô nhà. Tôi
hỏi mới biết ổng đưa mẹ tôi năm
đồng bạc bảo kiếm thuốc bó cẳng cho
tôi. Mẹ tôi không dám thọ ơn thêm, toan chối từ
thì ổng ấn đại tiền vào tay mẹ tôi rồi
mới chịu đi về.
Mẹ tôi để năm đồng bạc trên bàn,
muốn nói với tôi một chuyện gì lắm, nhưng
thôi, lại nằm phịch trên ván.
Trong đêm trường vắng lặng, tôi càng suy nghĩ
càng thêm khoan khoái lạ kỳ: Ôi câu thần chú linh thiêng! Hãy
giúp tôi thêm bao đường vinh quanh khác nữa…
* * *
Cô Yến chết không mấy ngày là tôi
phải cắm đầu làm lúa.
Thế thường gặt xong lúa bó phơi khô, tá
điền phải chở về chất ngố trong sân
ruộng của ông Chủ. Sân ấy ở giữa
điền rộng rãi vô cùng. Riêng phần ai nấy
giữ, phần ai nấy lo đập hoặc cho trâu
đạp ra lúa hột.
Ðập xong, xòn phải giê lúa hột cho sạch rồi
mới bắt đầu đong cho chủ điền.
Ðong xong, còn dư bao nhiêu mới được phép chở
đem về nhà.
Làm như thế không ai giấu đút đi đâu
được.
Nhưng ở các điền khách, tôi thường thấy
lúa ở sân đong vửa triến cho chủ điền
có khi còn thiếu là khác. Thế mà tá điền vẫn còn
lúa chở đi bán như thường.
Những cái bí mật đó, chỉ có giới tá
điền mới hiểu nổi.
Nhưng nói cho chí công chí minh, nghèo chịu, chớ tôi chưa
lần nào dở thủ đoạn ấy, bởi tôi
biết những người đã đem thủ
đoạn đó ra không ai giàu, không ai dư xu nhỏ xu
lớn nào. Họ cũng vẫn thiến thốn và
nhiều khi cũng bỏ điền trốn đi như
chú tư Lộ.
Năm nay, ở sân ông Chủ nhộn nhịp lắm. Tá
điền đập lúa ngày lẫn đêm. Ban đêm,
nhứt là những đêm trăng tỏ, không thiếu
mặt người nào ở sân lúa. Làm việc dưới
ánh trăng đã ít nhọc lại không tốn đèn
đuốc.
Thường thường ở những lúc tụ hội
đông đảo ấy, người ta tranh nhau làm không
biết mệt. Ðàn ông đánh cuộc nhau; đàn bà, con nít
chực sẵn từ bó lúa đập xong liệng ra, giành
giũ cho sạch hột đặng có ôm rơm chạy
đua ra chất đống ngoài bìa sân.
Về lúa đạp trâu thì ít nhọc hơn. Chờ khi bã
lúa đã đạp “chín”, họ dùng những mỏ xảy
xới rơm rất gọn gàng.
Trong những lúc ấy, họ nói chuyện tiếu lâm,
chuyện ma, chuyện quỷ, chuyện đời.
Lúc nghỉ, họ lại tổ chức nhiều cuộc
vui thú vị như là nhảy chan chán, trốn kiếm, u,
cút bắt, nhảy dây, thí võ…
Những trò ấy không phải chỉ dành riêng cho trẻ
nhỏ mà cả đàn ông, đàn bà cũng nhào vô chơi.
Ðêm ấy trời trăng sáng như ban ngày. Lúa không còn bao
nhiêu nữa là hết, nhưng gặp lúc gác tay gợi
lại nỗi buồn, tôi nằm trường trên ván
sạp, lâu lâu buông tiếng thở dài. Mẹ tôi thúc mãi tôi buộc
lòng thờ thẫn ra sân.
Ở đó, đủ mặt dân điền… có cả
con tám Én và thằng tư Bồ…
Người ta đã biết cả sự hiềm khích
của chúng tôi nên khi đặt chân vô sân là muôn mắt
đều đưa lên nhìn.
Thằng tư Bồ đang cong lưng đập lúa cho
con tám Én, trực thấy tôi, bèn ho lên một tiếng
rồi khạc nước miếng nhổ xuống
đất. Con tám Én đang lom khom giũ rơm, cũng ngưng
lại nhìn tôi rồi cúi đầu.
Ối chà! Thật là xứng đào xứng kép! Thấy
cảnh ấy, bỗng nhiên lửa giận nổi
phừng, tôi bậm môi nói thầm: À! Cho mặc bây trêu
người, rồi bây sẽ biết tay tao như thế
nàó
Tôi cố nén lòng lại ngố lúa mình gần đó lấy
cặp đập.
Trong lúc ngườit a đan đủ đôi đủ
cặp, tôi thấy lòng mình càng trống trải. Hình ảnh
cô yến hữu duyên thoáng ra trong óc, rồi cô Yến héo
tàn…
Bó lúa trên tay tôi nặng trĩu. Mình tôi đau nhức từ
lóng xương, tâm thần uể oải.
Thằng tư Bồ cứ tằng hắng, cứ ho hen,
kêu thằng năm Ô gợi chuyện:
- Ê Năm, đời người ta lắm lúc chịu
nhiều cái oan “con chó”! Những thằng mà mình chỉ níu
đầu cho một “loi” vô bản họng là nằm ngay
cán cuốc, thế mà mình phải quỳ trước
mặt nó, năn nỉ nó, có ức cho không?
- Thôi, mầy nhắc đến lũ “cào cào châu chấu”
đó tao ghét lắm. nó có thế thần; nó có “cò máy”
với nhau! Nó dựa hơi, nó ỷ thế, chớ
đồ “xỏ lá” ấy, “bung” được, tao “bung
mẹ” nó một cái là rồi đời…
Ðang quạu, đang buồn, tôi tức giận tràn hông không
còn nhịn được nữa, liệng cặp xốc
lại:
- Ê hai thằng kia, bây nói a “xỏ lá”, ai “cào cào châu chấu”
hả?
- Nói ai mặc tao, can dự chi đến mầy?
- Bây chỉ là một lũ tiểu nhơn được
tài nói hành, nói lén người ta!…
Bị chửi ngay mặt, thằng tư Bồ nổi
giận:
- Ê, tao có nói lén ai mậy, tao nói trước mặt mầy
kia chớ! Mầy giỏi làm gì thử chơi? Ðánh tay
đôi, sức một?
- Chấp cả hai thằng! Ðứa nào giỏi, đập
lúa xong ra thử tài, không cần phải gây sự một
cách hèn hạ như vậy?
- Thiệt chơi?… “Mần”! Ai lại chạy ai à?
người ta thấy gây lộn ồn ào, bu lại coi.
Con Tám Én đứng sững người ra. Từ khi
khởi đầu câu chuyện, nó lén lút đưa mắt
nhìn tôi như khẩn cầu.
A, con nầy cũng biết ghê mình, muốn “xin” giùm cho
tụi nó! Ðược đâu!… Rồi sẽ đến
phần mầy nữa kia mà!
Nghĩ như vậy, tôi không thèm dan ca, cãi cọ làm gì
nữa, rán đập cho rồi đống lúa.
Bó lúa ban đầu nặng trĩu bao nhiêu, bây giờ
nhẹ nhõm bấy nhiêu.
Sân lúa chỉ còn vang lên những tiếng đập,
tiếng lào xào của rơm, tiếng nẹt trâu, và
tiếng rầm rì của đàn bà, con nít…
* * *
Ðêm đã khuya lắm mà không một
người nào chịu về. Cả sân đều
biết cuộc đấu võ chánh thức của tôi. Và có
lẽ họ lấy làm ngạc nhiên cho một thằng
đờn ca yếu nhớt như tôi mà ra đánh võ.
Họ xầm xì chờ đợi.
Ðập xong đống lúa, tôi đi dài ra ngoài mé sân thẩn
thờ dạo mãi, chờ. Tôi đọc sơ lại câu
thần chú, dượt sơ lại cái ấn thần
thình. Phe thằng tư Bồ cũng hối hả, không
mấy chút đã đập xong phần lúa, rồi kéo nhau
đi chọn một góc sân bằng phẳng làm võ
trường.
Tôi quay đầu thong thả đi vào, bỗng con tám Én
ở đâu lù lù đi lại đón đầu tôi kêu nho
nhỏ:
- Anh Sáu, anh Sáu!
Tôi lạnh lùng khinh bỉ:
- Cô muốn gì?
- Tội nghiệp, anh Sáu à, đánh làm gì, rủi…
- À há! Cô sợ tôi đánh chết tụi nó? Không, không, cô
đừng lo, tôi không hèn mọn mà hạ chúng thẳng tay
đâu!
- Anh Sáu à, em chỉ sợ cho anh…
- Sợ cho tôi? Thôi đi cô, cho tôi xin, cô đừng mỉa
mai tôi thêm nữa!
Tôi bứt ngang bỏ con tám Én bẻn lẻn đó, rảo
bước đến bức tường người.
Thằng tư Bồ đã chực sẵn ở võ
trường.
Tôi chẳng nói chẳng rằng, vẹt người ta chen
vô chính giữa.
Thiên hạ lại xầm xì lên:
- Thằng “Sáu đờn kìm” giỏi lắm chỉ
chịu nổi một thoi của thằng tư Bồ là
cùng!…. Trời ơi, ai chẳng biết thằng tư
Bồ có bộ “Phụng hoàng” tuyệt diệu….
Thiên hạ càng khen, thằng tư Bồ càng kiêu hãnh. Nó
hất ngược mặt lên trời:
- Ê cho mầy sửa soạn năm phút! Cho mầy tấn
trước! Cho mầy muốn đánh cách nào đánh,
đâu cũng được…
Rồi nó “đi” một đường thảo vòng tròn
theo lớp người, miệng nói oang oang:
- Xin lỗi bà con đứng rộng ra một chút, tôi có
tật đan1h mạnh tay, rủi trong lúc giao đấu
lỡ đụng bà con thì kỳ lắm!….
Xong, nó quây vù vù một bộ nữa rồi chớp một
cái, nó đứng “sụn” hai cẳng xuống, cung tay
thủ thế coi vững chắc như trồng:
- Nào, nhào vô kiếm ăn?
Tôi vẫn một mụuc làm thinh, tay bắt ấn,
miệng đọc thần chú lầm thầm, lưỡi
vẽ bùa, thổi nhẹ ngay mặt nó cho mờ mắt…
Rồi định bụng lại “xán” cho nó một bốp
tai, một bốp tai thôi, cho nó mang xấu lần nữa
tới già.
Thổi bùa xong, tôi từ từ đi lại, đưa tay
lên sè lần ra…
Bỗng đâu một tiếng “khoan” vang dậy từ phía
ngoài, con tám Én vẹt người nhảy xổ vào.
Tôi thụt tay lại ngơ ngác, thằng tư Bồ
chợp né cũng ngơ ngác… thì con tám Én đã tới
nơi.
Tôi bụng bão dạ: À con nầy nhào lại “đỡ
đạn” cho thằng tư Bồ đây!
Tôi sắp niệm thêm một câu thần chú nữa
để hạ nguyên cặp, thì bất thình lình con tám Én
chộp ngực thằng tư bồ lúc lắc:
- Mầy ỷ sức định hại người ta
hả?
Rồi cũng bất thình lình, nó co giò, tống ngay vô
bụng thằng nọ một đạp lộn nhào không
kịp đỡ.
Cái thằng coi vậy mà yếu đòn, nằm ngay chừ
dưới đất giãy tê tê.
Tôi còn kinh ngạc, bỗng dưng người ta bên ngoài lo
ó lên:
- Ðỡ thằng tư Bồ dậy! Giựt dùm dây lưng
cho thằng tư Bồ!… Giựt mau lẹ ra, nó mất
thở rồi!…
Mà thiệt, thằng tu Bồ đã nín thở.
Bỗng lại có tiếng la vang lên nữa:
- Tránh, tránh mau mầy, Sáu đờn kìm!
Tôi chưa kịp quay đầu lại, chỉ thấy
thoáng bóng một cái gì chớp nhoáng… xẹt xuống đầu
tôi đánh “bốp” như trời giáng. Tôi xỉu xỉu,
ngã quay ra không còn biết gì nữa….
Trăng Thanh
Nghe tiếng khóc thút thít bên tai, tôi giựt mình
tỉnh dây. Ðầu tôi nhức nhối như bị chẻ
làm hai. Nghe hơi lạnh buốt cả thân mình, tôi lần
lần mở mắt.
Ủa lạ! làm gì tôi đang nằm sóng sượt trên
xuồng và trong bụi mắm?
Trăng vẫn sáng tỏ như thường để
chen vào cành cây những tia sáng mong manh.
Bóng cây đã ngả chỉ rằng trăng đã quá
đầu. Xa xa có tiếng chó sủa dồn. Sương
khuya nhểu từng giọt, từng giọt, từ trên lá
mắm xuống xuồng xuống mình tôi.
Tiếng khóc vẫn thút thít trong vô cùng yên lặng. Tôi
đưa tay rờ lên đầu. Ðầu đã
được bịt một cái khăn ướt
ướt.
Tôi rán chống tay ngồi dậy để nhìn kỹ
người đang khóc phía mũi xuồng, nhưng vô ích,
tay chân tôi còn rũ liệt.
Xuồng động, tiếng khóc thút thít bỗng ngưng
mất. Rồi xuồng lại động. Tôi có cảm
giác rằng người khóc ấy đang bò lại gần
tôi.
Quả thiệt như vậy, “người ấy” bò
lại, “người ấy” đỡ tôi dậy,
để tôi nằm trên tay, rồi “người ấy” kêu
nho nhỏ:
- Anh Sáu!
Ý trời! Con tám Én!
Tôi rụng rời không nói được gì hết. Sự
ngạc nhiên là liệt bại cả nói năng và cử
động của tôi.
Con tám Én nhẹ nhàng ôm tôi trên tay, kéo vào lòng. Hơi ấm
ở người nó lần lần thấm vào da tôi, vào
thịt tôi. Hơi ấm ấy, với tôi là một
nguồn sanh lực, một phương thuốc thần
làm cho tôi định tỉnh: nó đá thằng tư Bồ
nhào một đống… mình bị ai “khệng” một cây…
Rồi bây giờ sao lại nằm đây, nằm trên
xuồng, trong bụi mắm? Nó làm gì tưng tiu ôm mình?… nó
làm gì mà… khóc? Mà làm gì nữa lại ở trong bụi
mắm nầy chớ? Lạ lùng, lạ lùng, thật
lạ lùng! Phải hỏi cho ra lẽ…
Tôi giợm ngồi dậy, nhưng bàn tay mềm mềm
của nó đưa lên, chỉ đè nhẹ một cái là
tôi nằm yên xuống không cục cựa.
- Anh nằm cho khoẻ một chút đi!..
Rồi nó lại nối tiếp cái “bản khóc” bi ai thê
thảm.
Lần nữa tôi lại lạ lùng: Hồi nãy mình nằm
“ngay cán cuốc”, nó khóc; bây giờ mình sống nhăn
lại đây, nó cũng khóc. Quái lạ cho con nầy!
Vùa lúc đó, tôi trực nhớ lại mối thù. Vùng
một cái, tôi ngồi xổng lên điểm mặt nó:
- Thôi đi, đừng màu mè trêu gan tao nửa!
Tức thì, con tám Én đưa tay bụm miệng tôi
lại:
- Ðừng la lớn, anh Sáu!
Tôi vẫn trợn mắt nói oang oang trong lòng bàn tay nó:
- Cái gì… cái gì mà bụm miệng người ta?… Ôm mà xơ
rốp…
- Anh Sáu à, nằm yên xuống đây, em sẽ nói hết cho
anh nghe.
Giọng nó tấm tức, tấm tưởi nghẹn ngào
làm tôi cũng động lòng. Tôi gở tay nó ra dịu
bớt:
- Làm gì tôi ở đây, mà làm gì… cô ở đây?
- Anh Sáu ơi, em đang trốn, ngưòi ta đang kiếm
em rần rần ngoài kia kìa!
- Kiếm cô? Sao cô không về, lại bắt tôi phải
trốn theo trong bụi mắm nầy là nghĩa lý gì
vậy?
Tôi dứt câu nó lại khóc thêm, khóc mướt.
Ai có lòng dạ sắt đá, chai, lì đến thế nào
đi nữa cũng phải động mối
thương tình, huống gì tôi, thằng “Sáu đờn
kìm”, đã có lần xưng “anh” ngọt với nó.
Tự nhiên, tôi vuốt tóc nó, níu tay nó, ngọt ngào:
- Em Tám, sao em khóc, anh làm gì em mà em khóc?
- Anh Sáu ơi, khổ cho em lắm. Chết em rồi anh Sáu
à!
Mình tôi thấy ấm nữa, mà trở lại nóng hầm:
- Trời, gì đó em Tám, sao vậy em Tám?
- Anh ơi, để em thuật hết đầu đuôi
cho anh nghe. Thằng tư Bồ, như anh đã biết, là
học trò ruột của ba em, nghề nói giỏi lắm.
Vậy mà anh dám rủ nó thí võ. Chẳng lẽ anh với nó
gây lộn, em, người ngoài cuộc, em lại xen vô
đưọc lời gì. Thấy anh hứa đánh với
nó, em đón đầu cản anh, anh không nghe. Ðến khi nó
thủ cái bộ “lão hổ” là cái thế độc
hiểm vô cùng, mà anh không biết. Anh đã đứng
xụi lơ, rồi lại càn dám xáp lại gần nó
nữa. Em đứng ngoài hết vía, biết rằng
nếu nó trở bộ một cái là đá vô bụng anh
chết liền. Lúc đó quýnh quá, em không kịp suy nghĩ,
chạy nhào vô để cứu anh. Ðã vậy mà nó lại
nghình em, sẵn đang tức giận, em cho nó một
đạp nhào đầu. Rủi em đạp mạnh quá
nhằm dạ dưới làm nó tức đến mất
thở. Em đã điến hồn, kế dòm lại thì anh
đã bị thằng năm Ô vác cặp đập lúa
đánh anh chết giấc…
- Trời, thằng năm Ô đánh anh? Ðồ xỏ lá, quân
khốn nạn!
con tám Én lật đật bụm miệng tôi:
- Nhỏ nhỏ chớ!… Lúc đó, máu trên đầu anh ra
nhiều quá mà thiên hạ chỉ lo cứu thằng tư
Bồ không ai ngó ngàng gì đến anh, em đau lòng rút
khăn rằn bịt đầu cho anh, rồi mượn
chị bảy Móm khiêng anh xuống xuồng.
Ðến đó con tám Én lại nghẹn ngào:
- Ba em mà bắt được em trốn đem anh đi
như vầy thì em chết mất không còn.
Tôi cảm động quá, bao nhiêu nước mắt trào ra,
tôi siết chặt lấy tay nó:
- Em thưong anh lắm sao em?
Con tám Én cúi đầu không đáp câu hỏi của tôi,
tiếp:
- Em định chỏ anh về nhà cho bác băng bó,
nhưng vừa đi được một đỗi, có
đèn đuốc rượt theo rần rần, em
phải lủi xuồng vô đám mắm nầy ẩn
trốn. May qua, xuồng vừa đậu yên thì họ theo
tới. Họ chia ra từ tốp, kẻ trên bờ,
người dưới xuồng, cãi nhau om sòm.
- Nó chở thằng “Sáu đờn kìm” đi ngả
nầy, ngả nầy… Không xa đâu… sức nó mà bơi bao
nhiêu!
Thấy họ kiếm em ráo riết quá, em nhè nhẹ
vẹt lá mắm dòm ra ngoài thử coi.
Ba em ngồi trên một chiếc xuồng có hai người
bơi. Dưới ánh trăng, em khống thấy rõ vẻ
mặt ổng như thế nào, nhưng theo câu nói của
ổng thỉ khổ cho em vô cùng.
- Cậu hai nói gì?
- Ba em hậm hực như tức tối: “Bắt nó
đưọoc, tôi giết chết! Tôi giết không
nghĩ tình cốt nhục gì nữa…”
Con tám Én nói tới đó khóc oà.
Tôi càng thương hại thêm, càng đau lòng thêm, càng yêu
mến thêm. Tôi chụp nó ôm sát vào lòng:
- Em Tám ơi, anh lầm em rồi, anh đâu có dè em có
một tấm lòng đáng yêu như vầy! Vậy mà anh
cứ coi em như một kẻ thù khốn nạn.
- Trời, anh thù em?
- Vậy mới có chuyện tác tệ đến
dường nầy! Em có biết đâu từ ngày anh
phục lụy em giữa đồng vì ba con cá, anh cho
đó là một cái nhục không sông ngào rửa sạch? Anh
mới lập tâm thế nào trả cho được cái
nhục ấy, nghĩa là làm thế nào cho em quỳ lạy
anh lại, năn nỉ anh lại, mới vừa lòng. Anh
bỏ điền cậu Bộ qua điền ông Chủ
cũng vì lý do ấy, mặc cho anh Chủ ổng đè nén,
bóp chẹt đủ điều… Ôi! Anh đâu có dè vì
một mối thù nhỏ mọn đó mà đưa anh
với em đến tình cảnh nầy…
Con tám Én gạt nước mắt mếu máo:
- Anh ạ, em bây giờ chỉ biết có chết mà thôi
chớ không còn mặt mũi nào dám thấy ba má em nữa.
Ba má em có ý muốn gả em cho thằng tư Bồ,
muốn bắt nó làm rể ở, nay em đạp nó
chết giấc, ba má em đâu có thể dung tình cho em được!
Tôi an ủi:
- Em vì anh mà ra nông nỗi nầy, lẽ nào anh không biết
tìm cách gì để cứu em hay sao? Em yên lòng đi, chúng ta
đang ở vào một hoàn cảnh gay go, thì thủng
thẳng ta sẽ liệu tính.
- Còn liệu tính gì nữa? Ba em chỉ trông gặp em là
giết chết. Em là ba má em nhọc lòng, thì chỉ còn
một nước là em nạp mình chọ trọn hiếu.
Rồi ổng xử cách nào em cũng cam. Ðiều cần
nhứt là bây giờ làm sao cho anh về nhà băng bó cái
đầu lại, để lâu không tốt.
- Anh hết biết đau dodón gì nữa rồi. Dầu nó
có nứt hai ra, anh cũng không ngại. Hãy lo cho phần em
cái đã!…
Lo cho phần con tám Én? Tôi điên đầu nhức óc. Lo
cách nào rồi cũng phải đưa nó về nhà. Mà
đưa nó về? Ôi, khi nghĩ đến cảnh nó
bị hành hạ, là tôi không chịu nổi. Hai Hoá nào
phải là một tay vừa! Nó mà chịu những thoi,
những đá, thì còn chi là thân thể… liễu bồ?
Tôi nảy ra đưọoc một ý nghĩ: Hay là dẫn
nó theo trốn? Nhưng ý đó bí chống trả lập
tức: Trốn đi đâu? Mẹ còn đó không ai nuôi, lúc
còn đó không ai làm, tiền không một xu dính túi, gạo
không một hột đỡ lòng….
Sau cùng, tôi nghĩ được một kế kỳ
diệu:
- Em à, chúng ta không thể chần chờ đây nữa
được, sợ sáng ra thì bị bắt cả chùm.
Ở đây có ngả tắt về nhà ông Chủ. Ông
Chủ là người thân của anh. Anh em mình rán chốgn
xuồng lẹ về đó anh gởi em cho ổng,
mượn ổng đến xin tội cho em. Bề gì
ổng cũng là chủ điền của cậu Hai, anh
chắc cậu Hai không nỡ hành hạ em đâu.
- Anh thổi bùa gì cho ổng mê được?
- Bùa gì mặc anh, bây giờ em hãy nghe anh đi.
- Em sợ đi dọc đường…
- Ðừng lo, gặp ai anh cũng không sợ, anh làm cho
họ mờ mắt hết… đừng lo!
Con tám Én vùng vằng một chặp, suy nghĩ đáo
để rồi đáp:
- Không được anh à. Ai mà đi với anh lại nhà
ông Chủ cho được, thiên hạ họ thấy
sẽ cười thêm…. Thôi, em có cách nầy: nếu anh
“thân” với ông Chủ thì em đưa anh ra bờ. Anh
đi một mình lại cầu cứu với ổng, nói
với ổng sáng lại nhà em xin tội giùm em.
- Còn em?
- Em nằm trong bụi nầy chò sáng cho ba em nguôi giận,
em sẽ về nạp mình. Anh có thương em thì lo giùm
bấy nhiêu là đủ.
Con tám Én nói rồi lấy giầm chống xuồng ra
khỏi bụi mắm.
Tôi giã từ nó bằng một cái hôn “dữ tợn” rồi
nhảy vọt lên bờ…
Hận Nghìn Ðời
Tôi xả giò chạy về nhà cho mẹ tôi
vững lòng một chút rồi sẽ hay. Ðầu tôi phơi
ngoài sương lạnh trở lại nhức nhối vô
cùng.
Tới nhà, tôi đã mệt đuối. Củua mỏo bét.
Cây đèn cháy lụn, còn “níu” chút nửa lập loè chỉ
chờ một hơi gió động là tắt.
Tôi vừa khêu lên vừa cằn nhằn: Không biết
mẹ tôi đi đâu mà bỏ nhà hoang lạnh như
vầy, rủi ăn trộm lỏn vô lấy hết
đồ thì còn gì xoay trở?
Nhưng tôi giựt mình: Hai cái ghế nhỏ ngã nằm sòng
sượt, khay trầu, chén dĩa đèu lăn đùn ra,
cái trên bàn, cái dưới đất.
Mẹ tôi đâu kìa?… Mẹ tôi đâu?…
- Má ơi!
Tôi phập phồng lo sợ dường như có một
sự gì không hay xảy đến.
Tôi dòm diớn giác khắp nhà.
- Trời…
Tôi chạy nhaò lại gốc cột bên vách.
- Trời ơi… ai nhẫn tâm trói mẹ tôi, đánh mẹ
tôi thân thể như vầy?
Tôi khóc rống lên, quỳ phục xuống, ôm mẹ mà gan ruột
chẳng còn.
Mẹ tôi bị trói ké vào gốc cột, áo bị xé nát, tóc
phủ lùm lùm xuống mặt, gục đầu ngất
đi tự hồi nào.
- Má ơi! Má ơi!…
Không nghe mẹ tôi trả lời, tôi điếng cả
đầu óc, rối loạn cả tâm can, vừa khóc
vừa mở dây bồng mẹ tôi để nằm trên
ván.
Mẹ tôi thở hoi hóp như sắp lìa trần.
Lúc nầy tôi mới nhận được mặt mày
của mẹ tôi đầy những cục u nần xanh
xám, mình mẩy đầy vết tím bầm.
Hỡi cả thiên hạ trên thế gian nầy!
Người con nào thấy mẹ như thế lại
chẳng muốn bứt cả chùm ruột, cả tim gan,
rồi kêu lên một tiếng cho thấu đến
Trời, hét lên một tiếng cho ba đào sóng dậy?
Tôi nằm phủ phục bên mẹ, khóc la, rên siết:
- Ðây hẳn là quân độc ác, lũ tàn bạo, thằng
tư Bồ và thằng hai Hoá trả thù mình bằng cách tàn
nhẫn vầy đây!…
Tôi tức tối đến đỗi hai bàn tay nắm chặt
lại đập xuống ván ầm ầm cho sưng
cả lên mà không biết đau đớn.
- Tao sẽ ăn gan bây, uống huyết bây, để
trả thù cho mẹ tao!… Má ơi…! Tỉnh dậy với
con má à! Con đây nè má….
Tôi kêu, tôi khóc, tôi la… Trong đêm tàn chỉ có tiếng dế
âm u bên ngoài đáp lại.
Cầu cứu với ai bây giờ? Xóm tôi nhà nầy cách nhà
kia đến hàng chục công đất ruộng.
Kêu mẹ tôi không tỉnh, tôi chạy đi lấy khăn
nhúng nước vỗ trán, vỗ mặt, vỗ
đầu.
Tôi cầu Trời khẩn Phật, kêu réo hết cả
thần thánh mười phương… vái van khẩn
thiết.
Mẹ tôi cựa mình là tôi hồi hộp, mẹ tôi bực
ra đưọc một tiếng rên là tôi thấy nhẹ
như đang bị đè dưới Ngũ Hành Sơn
vừa thoát dậy.
- Má ơi, con đây má!
Mẹ tôi từ từ mở mắt, nhìn thấy tôi,
nước mắt chan oà.
- Con… con… phải… không?
- Con đây má, con đây! Làm sao thân thể má như vầy?
Ai trói má, ai đánh má, má nói cho con nghe, con đi trả thù cho
má ngay bây giờ!…
mẹ tôi sẽ sẽ lắc đầu đau
đớn:
- Con ơi, con làm gì mà mặt đầy máu me như
thế?
Tôi giật mình đưa tay lên vuốt mặt mới hay
cái khăn con tám Én bịt văng mất đi hồi nào,
mà mắu trên đầu bựt ra nhiều quá, chảy dài
xuống ưóot cả hai gò má.
Tôi nghiến răng:
- Không sao, con té lỗ đầu chút đỉnh. Má! Có
phải bọn hai Hoá và thằng tư Bồ đánh má
không? Má nói liền cho con nghe, con nóng lắm!
Mẹ tôi lắc đầu thêm lượt nữa:
- Không, không phải con à! Hai Hoá hồi nãy có lại đây
kêu cửa hỏi thăm con tám Én rồi đi mất… làm
gì nó dám đánh má!
- Nó chỉ hỏi thăm con tám Én rồi thôi à?
- Thì nó hỏi rồi đi chóo còn ở làm gì, vả
lại khuya khoắt rồi, mà nó đi hối hả
lắm!
- Té ra mà không hay gì hết… Má rồi ai đánh má đây
chớ?
Rán trả lời với tôi đến đây, mẹ tôi
mệt lắm, nằm yên, nhắm mắt lại, không
đáp.
Một chặp sau, mẹ tôi mở mắt ra nhìn tôi,
nước mắt lại tràn theo:
- Con cho má chút nước đi con!
Vụt một cái, tôi bưng chén nước lại.
- Má ơi, xót ruột con không biết ngần nào,
nước đây má uống đi, rồi má nói cho con
biết kẻ nào đan1h má, con xách dao đi lấy
đầu nó ngay bây giờ… con mới hả dạ.
- Thôi con ơi, không nên! Như vầy cũng đủ
nhục nhã thân má lắm rồi. Con đừng làm thiên
hạ hay thêm, để má chết, về với ba con.
- Trời, má nói gì vậy má?
- Con đừng trả thù, mà trả thù không
được đâu con à. Sợ rồi làm lụy thêm cho
thân con. Người ta bắt má, đánh đập má ở
giữa đồng. Mẹ con mình ở đây bơ vơ…
Mà người ta là người thế lực…
- Thế lực bằng ông Trời con cũng không sợ.
má cứ nói đi, con xách đầu nó về đây
liền cho má thấy cái gan của con.
- Con dằn xuống. Má biết con đang tức tối
lắm. Nhưng má còn tức tối hơn con nhiều… Má
cũng phải ôm lòng chờ chết… Con hãy để
một mình má chịu nhục thôi con…
Nói xong, mẹ tôi khóc ngất gần bứt hơi.
Tôi hốt hoảng, lấy quạt, quạt cho mẹ tôi,
vuốt ngực cho mẹ tôi, đầy những lo sợ,
uất ức, nóng lòng…
- Má ơi, má nghỉ một chút cho khoẻ đi má, rồi
má nói cho con nghe, thế nào má cũng nói cho con nghe, không, con
chết theo má…
Trong lúc mẹ tôi nằm thở dốc, tôi bóp đầu
nặn óc cố suy nghĩ. Vế thương trên
đầu lại động, máu lại trào ra.
Mệt nhọc, nóng ngảy, tức tối, đau
đớn bao nhiêu gom lại đè nặng tren mình, tôi
gục đầu bên mẹ tôi, nằm thiêm thiếp.
* * *
Ðêm tàn. Ánh trăng mờ lại trong màu
sương đục đục ở ngoài trời. Vài
tiếng chó sủa rời rạc ở xóm ngoài. Mấy con
dơi bay đớp muỗi, đập cánh sột sạt
bên vách lá.
Tôi đang chập chờn trong ác mộng, bỗng nghe
tiếng mẹ tôi thỏo hổn hển kêu:
- Con ơi, con!…
Tôi giật mình chỗi dậy, kinh hoàng đỡ mẹ tôi
nằm trên tay.
- Con ơi… má bị đánh nặng lắm, bằm hết
cả mình mẩy… bể hết cả gan phổi… má
sắp chết… Con kề tai xuống đây… má nói… má nói vì
sao… và kẻ nào đánh má… con… con, người giết
cuộc đời má là… là… ông Chủ!
Tôi nhảy nhổm người:
- Sao? Ông Chủ giết má! Ông Chủ giết mẹ tôi,
trời nè…!
Tôi tức giận run lên, lảo đảo toan nhảy
xuống đất.
Nhưng mẹ tôi gượng níu tôi giựt lại:
- Không… con, má nói người giết cuộc đời má
là ông Chủ… mà người đánh má là…
- Là ai?
- Người đánh má là… bà Chủ! Thảm thiết
chưa con, nhục nhã chưa con!… thằng hai Hoá lúc nãy
đi rồi, ông Chủ lại đây, ổng ngồi lân
la chuyện vãn, ổng mở lời chọc ghẹo má…
ổng ôm đại má… thì bà Chủ ở đâu nhảy
xổ vào.. Bả níu đầu má, bả chửi, bả
rủa… Cùng với con ở trói má vô gốc cột, đánh
má, đập má tơi bời… Mà con ơi…, má đâu có
tội tình gì… Con… con…!
Mẹ tôi nấc lên một hơi dài, rồi từ từ
nhắm mắt lại, vào giấc ngủ vô cùng.
Tôi đập đầu xuống sạp, hét lên một
tiếng lớn, rồi ngất lịm đi bên
người mẹ xấu số!
Ðoạn Kết
Năm năm tù và mười năm biệt
xứ không dài bao nhiêu, nhưng nó thay trọn cuộc
đời tôi. Tôi muốn người ta cho tôi ngồi trong
khám mãi để mà quên đi, quên biệt, còn hơn cho tôi
trở về với người đời.
Năm năm trong tù, tôi học rành chữ quốc ngữ
và mon men được chút đĩnh chữ Tây.
Mười năm biệt xứ khiến tôi có dịp
dạn dày với cuộc đời và nới rộng
tầm con mắt.
Tù hạn trả xong, tôi lần về làng cũ. Cảnh
vật không còn như xưa nữa. Ông và bà thầy pháp
đã vào cảnh Tiên, Phật; thằng Út đã đi theo
cải lương; đất ông Chủ Nghĩa bán cho
người khác; con tám Én đã có chồng với một
dọc con dài, chồng nó là thằng tư Bồ.
Tôi cất một căn nhà trên hòn Ðá Bạc. Ở đó,
ngày ngày nghe gió thét sóng gầm. Chỉ có gió thét sóng gầm
mới an ủi được lòng tôi.
Và chiều chiều, khi vừng thái dương sắp chìm
vào nước biển, tôi leo lên một mỏm đá cao
chót vót đứng nhìn về phía đất liền.
Sau rặng cây xanh bên ấy, chạy dài đồng nầy
sang đồgn kia, ruộng nầy sang ruộng khác. Trong
những đồng ruộng mênh mông, hiền lành đó,
ẩn trú biết bao nhiêu là tá điền và chủ
điền…
Mà thôi, dĩ vãng đã chết, còn nhắc lại làm gì
nữa!…
Họ không phải là người gây nên tội ác, họ
chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh xã hội và của
một thời kỳ….
Hết.